Anh Chu Vương Miện có thông báo cho tôi đọc thêm một bài viết của một vị viết về Năm Mùi với cụ Dê trên Hương Nguyễn Hoàng. Qua sự phân tích của bài, tôi cảm nhận khá đầy đủ và ý nghĩa hoàn toàn chính xác và xin góp phần thêm vào bài viết.
Trước
đó tôi có làm một bài thơ mang ý nghĩa là
“Cụ” (Năm “Cụ” về), nhiều vị mới đọc hai
ba câu đầu cứ tưởng rằng Cụ đây là một vị cao nhân nào. Nhưng thật ra hoàn toàn không phải. Cụ - nói theo bài
viết phân tích cụ có từ chữ cổ, cộ, cậu v.v…
Thường
thường phía bên ngoại hay gọi anh hay em
trai của mẹ là cụ (tiếng quê) hoặc cậu (tiếng
thường gọi). Nhưng Cụ để ám chỉ con Dê nó mang một ý nghĩa khác hơn chữ “cụ” bên ngoại mà ta thường nghe.
Theo
sách xưa, khi mới tạo thiên lập địa, nửa đêm giờ Tí thì có Trời, giờ Sữu mới có
Đất rồi mới qua giờ Dần - tức là khoảng chừng 3 đến 5 giờ sáng mới có con người.
Sau này, loài ngưòi văn minh mới đặt ra tiết lễ đúng vói những câu như sau:
-
Thiên
khai ư Tí
-
Địa
tịch ư Sửu
-
Nhân
sinh ư Dần
Giờ
Dần là bình minh hừng đông mặt trời bắt đầu ló dạng. Còn tháng Dần là tháng Giêng
(âm lịch) cho nên người xưa căn cứ vào sự xuất hiện của loài người trên trái đất
lúc mặt trời mọc mà quy định lễ, tết vào giờ Dần, ngày Dần, tháng Dần . Vì thế
mới có quan niệm cho rằng nhũng người sinh nhằm vào ngày, giờ, tháng, năm Dần đều
là những kẻ thông minh xuất chúng! Vậy lịch
Đại Á Đông xuất hiện vào lúc nào? Xin thưa:
Từ năm 2637 trước KiTô - trước Tây lịch- nhằm vào đời vua Hoàng Đế bên Tàu. Lịch
có lục giáp là 60 năm (gọi là một ngươn giáp). Còn một giáp quay vòng gồm có 10
năm. Thập can là Giáp, Ất, Bính, Đinh , Mậu, Kỷ, Canh, Tân , Nhâm, Qúy. Song hành
với thập can thì có thập nhị chi: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi , Thân
, Dậu, Tuất, Hợi. Vì vậy sự phối hợp giữa thập can và thập nhị chi sẽ cho ta con số 60. Nói cách khác
cứ 10 năm thì sẽ có một chữ trong thập can sẽ trở lại. Cứ trong 12 năm thì một
con vật trong thập nhị chi sẽ quay lại. Như vậy năm tới đây là Ất Mùi thì phải đợi 60 năm sau mới có Ất Mùi trở lại
(2015+60= 2075 -Ất Mùi ). Trong thập can thì có năm tốt, năm xấu tùy theo tuổi
trai gái phù hợp. Người ta thường nói: Nam Đinh, Nhâm/Nữ Qúy, Giáp. Người đời
thường hay có câu ví: Người ta tuổi Tí tuổi Mùi, còn em lận đận một đời tuổi Thân.
Ý nói rằng tuổi Mùi ưa mùi mẫn, nên nhàn nhã
còn tuổi Thân nghe ra như “tủi thân” nên lắm đau khổ, đoạn trường!
Trong
một kỷ 12 năm có 4 Tam Hợp: Thân, Tí, Thìn;
Tỵ, Dậu, Sữu; Dần, Ngọ, Tuất; Hợi, Mão, Mùi. Cũng trong 12 năm ấy có 3 tứ hành
xung: Tý, Ngọ, Mão, Dậu; Thìn, Tuất, Sữu, Mùi; Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Năm
Mùi biểu tượng là Dê cho nên chúng ta có những câu chuyện xưa liên quan tới “CỤ”
như sau:
Dương
Xa: Vào đời nhà Tấn bên Tàu, Vua Vũ Đế có nhiều phi tần mỹ nữ, đêm ngày không
biết chọn ai để vui chơi, bèn nghĩ ra cách làm một chiếc xe khảm vàng cho một đoàn
Dê kéo (Gọi là Dương xa). Hễ mấy “cụ” kéo xe vào phòng nào thì vua sẽ nghỉ lại
nơi ấy. Nghe nói Dê hay thích lá dâu cho nên mấy nàng cung phi mỹ nữ hay để lá
dâu trước cửa cho Dê tìm tới!
Trong
“Cung oán ngâm khúc” Ôn Như hầu Nguyển Gia Thiều có đoạn như sau:
“ Trên chín bệ mặt trời gang tấc
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu
Phải duyên hương lửa cùng nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.”
Ở
Huế xưa cũng có một nhà thơ trào phúng có danh xưng là Thảo Am Nguyển Khoa
Vi ở Vĩ Dạ đã cảm tác một bài thơ thất
ngôn bát cú như sau:
Lãng mạn ham chơi bộ bết B
Vô song tứ sắc cứ ngồi C
Thơ tiên ngâm nhảm thành thơ cóc
Rượu thánh say mèm hoá rượu D
Dại bạc đã lầm tay quỉ quyệt
Thua cờ chưa hiểu nước cao Đ
Ngất ngơ đến rứa ai bì được
Bì được như mình ngó cũng Ê!
Nói chuyện Dê chắc chắn qúi vị không thể quên
chuyện của Bá Lý Hề mà vừa rồi tôi có đọc
trong hai bài ở Hương Nguyển Hoàng và Văn Nghệ Trời Nam qua lời bình của nhà thơ Châu Thạch cảm nhận về bài thơ của thầy
giáo La Thụy, trong đó đã nói tới điển tích Bá Lý Hề một cách khá đầy đủ.
Bá
Lý Hề: Người nước Ngu tự là Tỉnh Bá, ngoài 30 tuổi mới cưới vợ, sanh được một
trai. Nguyên nhà nghèo nhưng học hành thông minh, ông ta muốn ra đi để tìm cơ hội
tiến thân, ngặt một nổi vợ con không có nơi nương tựa . Đổ Thị biết chồng mình
nuôi chí lớn, bèn khuyên chồng nên dẹp tình riêng mà dứt khoát ra đi.
Chí quân tử, cữu châu lập nghiệp
Đại trương phu tứ hải vi gia.
Trước
giờ chia ly Đổ Thị bắt một con gà độc nhất nấu cháo đãi chồng ăn. Vì nhà quá
nghèo nên sau đó hai mẹ con Đổ Thị cũng phải bỏ nhà ra đi. Qua Tề Bá Lý Hề không
có ai tiến dẩn, cạn hết tiền bạc, nên phải đi ăn xin nơi đất Chất. Lúc này ông
ta đã 40 tuổi rồi. Sau này may mắn ông gặp
được Kiến Thúc là một hiền nhân, lớn hơn ông ta vài tuổi, nên kết thành huynh đệ.
Bá ở lại nhà Kiến Thúc, ban ngày thì đi chăn trâu thuê. Kiến Thúc thì đi làm mướn.
Sau một thời gian, hai người nghe được bên nước Châu có Vương Tử Đối, là người ưa
thích Trâu, những ai biết nuôi trâu đều được trọng dụng. Bá Lý Hề đến gặp Vương
Tử Đối, được ông ta hậu đãi, nhưng Kiến Thúc khuyên Bá rằng: “Vương Tử Đối có
chí lớn, nhưng kém tài ưa dùng những kẻ xu nịnh, việc lớn ắt khó thành. Ta phải
tìm cách xa lánh.”
Nghe
lời Thúc, Bá Lý Hề trở về quê thì biết vợ con đã bỏ đi cả rồi. Sau đó Cung Chi
Kỳ tiến cử Bá với Ngu Công. Bá Lý Hề theo Ngu Công sang Tấn hầu hạ không rời nữa
bước. Nơi đây Bá Lý Hề chưa làm được gì thì bị kẻ nịnh thần tâu vua Tấn sai Bá đưa
dâu sang Tần để cầu hòa. Bá Lý Hề buồn bực cho số phận của mình, nhân đêm tối
trốn qua Sở. Mới tới Uyển Thanh đã bị bọn thợ săn bắt đem về giao cho việc chăn
trâu. Với tài nghệ chăn trâu. Bá Lý Hề đã viết tập “Chỉ nam về nghệ thuật và kỹ
thuật nuôi trâu”.
Sau này, Tấn Mục Công biết Bá Lý Hề là người
hiền, có tài kinh bang tế thế. Để có kế hoạch qua mặt vua nuớc Sở. Tấn Mục Công gởi người qua Sở, mang theo 5
bộ da Dê (Ngũ dương bì) làm lễ vật. Quả nhiên rước được Bá Lý Hề về Tấn.
Về
đến Tấn, Tấn Mục Công thấy đầu tóc Bá Lý Hề bạc trắng, có ý buồn cho là Bá Lý Hề tuổi đã già. Bá Lý Hề bèn tâu: “Nếu
chúa công khiến kẻ hạ thần đi duổi chim, săn thú quả là hạ thần không làm nổi. Còn như chúa công
cần người để giúp, chung sức lo việc nước
thì tuổi thần còn quá trẻ so với Lã Vọng tuổi 80 ngồi câu ở sông Vị, được Văn Vương
rước về giúp nhà Châu, lập nên cơ nghiệp.” Mục Công nghe hài lòng, bèn phong cho ông chức thuợng khanh, nắm giữ binh quyền trong
tay.
Giai
thoại sau này việc Bá Lý Hề nghe vợ ông ta là bà Đổ Thị xin vào ca hát như sau:
Bá
Lý Hề, ngũ dương bì Ức biệt thì, phanh
phục thư, xuân hùng phỉ, xuy diễm di,Kim nhật phú quý, vong ngã vi? Bá Lý Hề,
ngũ dương bì, phụ lương nhục, tử đề ký, phu văn tú, thê hoãn y,ta hồ phú qúy,
vong ngã vi?
“ Bá Lý Hề , ngũ duơng bì ! Tích chi nhật, quân
hành nhi, ngã đề, kim chi nhật, quân tọa nhi ngã ly, ta hồ phú qúy , vong ngã
vi?
Nghĩa:
Bá Lý Hề
5 bộ da dê! Nhớ ngày ly biệt, mổ gà mái ấp, nấu nồi cơm vàng,
Tình
thiết tha, Nay phú qúy, nỡ quên ta sao?.
Bá Lý Hề, 5 bộ da dê! Cha ăn thịt cá, con
đói khóc dài, chồng mặc áo gấm, vợ giặt thuê hoài, Nay phú qúy, nỡ quên ta sao?
Bá Lý hề 5 bộ da dê, nhớ ngày xưa chàng
ra đi, thiếp nặng lòng biệt ly, bây giờ chàng ngồi đó, thiếp chẵng dám gần, Phú
qúy cao sang, nỡ quên ta sao?
Bá
Lý Hề nghe ca sửng sốt, bèn gọi lại gần mới nhận ra là vợ mình, bèn ôm nhau khóc
rống, làm mọi người cảm động.
Điển
tích bá Lý Hề từ lâu đã đi vào văn chương Việt Nam, vô số bài thơ, ca v.v… nhắc
đến câu chuyện này.
Trong
sấm của cụ Trạng Trình Nguyển Bỉnh Khiêm cũng có những câu nói đến Dê (Dương) như
sau:
Phụ nguyên chính
thống hẳn hoi
Tin Dê lại mắc
phải mồi đàn dê
Hay:
Ngựa đã gác yên
không người cởi
Dê không ăn lộc
ngảnh về Tây
Hoặc:
Trực đáo
Dương đầu, Mã vĩ
…. binh bát vạn nhập Tràng An
Rồi:
Mã đề Dương cước anh hung tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Thực
chất những câu sấm này “thiên hạ” nói rằng của cụ trạng Trình Nguyển Bĩnh Khiêm thì chúng ta là con, cháu, chắt, chít đời sau
nghe sao nói lại vậy, chứ biết bao nhiêu cái “Thân, Dậu” đi qua mà chẵng thấy nó thực sự ứng nghiệm ra sao! Mỗi
người bình mỗi cách cho đến khi nào mới
chính xác đây? Khó có ai biết được tương lai sẽ như thế nào? Kể cả những chính trị gia, kinh tế gia cũng chưa chắc “đoán”
được chính xác! Hậu vận, tương lai đều đang trước mặt, khó có ai dám nói trước được.
Sấm cũng chỉ là tương truyền, khó nói lắm phải không qúy vị?
Giáng
Ngọc.
2015
(Ất Mùi ).
Tham
khảo : -Văn đàn bảo giám
-Việt Nam gấm hoa