Friday, February 6, 2015

Rừng U Minh Thượng - Minh Kỳ
truyện ngắn

Trời làm một cụôc “bể dâu” (1)
“Lưu Bằng” hội ngộ nên câu giao phù. (2)
U minh “đất trích, kình ngư” (3)
Cỏn con cử bô, cho dù cuồng phong.
Nhắn câu “thường đảm bất vong” (4)
Tri âm tha nhật, chén nồng giao hoan.

Trời tháng năm nắng cháy da người, vừa bước xuống bến xe Rạch gía, còn đang ngơ ngác thì ba bốn tên công an ập đến xét giấy. Giấy tờ của “Ngụy quân” thì đầy đủ, từ căn cứớc quân nhân, chứng chỉ tại ngũ…lại có cả cây Colt 45 đang lận trong lưng nữa. Hỏi giấy tờ cách mạng thì:

_   Ơ hơ, tui đâu phải Việt cộng mà có giấy tờ cách mạng.
_   Vậy thì đưa hai tay lên đầu.

Tên công an kiểm soát toàn thân và móc cây colt 45 ra, dí súng Ak vào lưng, cấm nhúc nhích. Một tên chạy dọc theo bến xe, kiếm được khúc dây nhợ khoảng hai mét, thế là trói nghiến ngay vào. Xong dắt đi vòng vòng hết bến xe lại ra chợ. Coi như một thành tích to lớn vì đã bắt được một tên CIA của Mỹ gài lại. Thế là tự nhiên mình biến thành tội phạm được xếp ngang hàng với bọn ăn cắp, móc túi…CIA mà nhốt chung với bọn vô lại cũng là lạ thật!

Sau màn “lưu diễn” khắp tỉnh Rach gía, tôi được đưa vào ty cảnh sát, nhốt trong khám nhỏ. Ở đây lúc nào cũng có khoảng từ hai mươi tới ba mươi người gồm đủ mọi thành phần: Du đãng,  xì ke, ăn cắp, móc túi... một vài quân nhân Thủy quân lục chiến, một người lính Biêt động quân, ba bốn cô gái đìếm.

Lần đầu tiên bước vào nhà tù, ngơ ngơ ngáo ngáo như thằng ngố. Đang xớ rớ ngoài cửa thì có một thằng to như con trâu, đen thui bước đến :
-   Ê anh kia không được ngồi chỗ naỳ, nhìn mặt mày nó mà thấy gớm, thằng này người Miên chắc. Nó còn đang lải nhải các điều lệ trong phòng giam thì tôi buông gói quần áo xuống và một cú đấm thẳng vào mặt nó, nó xiểng niểng lui lại mấy bước thì đụng tường; tôi xấn tới nắm ngay cuống họng, nghẹt thở nó đưa tay lên gỡ, tôi nắm bàn tay bẻ ngược ra làm nó xoay người đi 180 độ và tôi khoá tay nó lại phía sau thật dễ dàng, bẻ nhẹ tay hắn đủ đễ hắn đau đớn một chút.
-  Tao báo cho mà biết nhá, đây là nhà tù; maỳ là tù nhân, tao và mọi người cũng là tù thôi. Tù mà không biết thương nhau thì ai thương chúng mày. Tao là một Sĩ quan Hải quân, tao không phải là thằng hèn đâu. Nếu mày không phục thì bước ra giữa nhà, mình làm lại, mà tao báo trước nha. Tự nhiên biến thành tù nhân nên tao đang sùng trong bụng đó, tao mà ra tay nữa là nặng chứ không nhẹ đâu à nha.
-  Dạ, em xin lỗi, mà anh hai thông cảm, nếu không có luật lệ trong phòng giam thì không thể sống được đâu.  Này nhá: Cả phòng giam mấy chục người chỉ có một cánh cửa, ai cũng muốn ra ngồi gần cửa cho thóang khí một chút. Nhà cầu nếu không sạch sẽ thì chỉ môt ngày là không thể nào thở nổi…Vậy nên ai vào sau bắtt buộc phải nằm gần cầu tiêu thôi. Cũng vì lợi ích chung mà em sém lọt tay với anh hai đó.
-  Xin lỗi chú mày, anh đang “ngon lành”, tự nhiên bị bắt như một tên vô lại, tâm hồn anh đang ở đâu anh còn chưa biết nữa nên dễ nổi nóng, chết anh còn chưa sợ mà. Hơn nữa mấy năm học Vovinam hôm nay mới được biêủ diễn một lần với chú mày đó, chú mày không thấy hên sao?-
-  Hên kiểu này ba lần chắc em phải chống nạng mà đi.-
-  Chú mày còn bực mình lắm hả?
-  Không có đâu, lúc nào rảnh anh hai chỉ cho em vài chiêu là được .

Đây là phòng tạm giam của ty cảnh sát Rạch giá cũ. Cửa được làm bằng cọc sắt thứ làm hàng rào kẽm gai .Bước vào cửa phía tay trái có một cái sập đóng bằng thùng đạn pháo binh, chỗ nằm của trưởng phòng.  Đi thẳng vô là căn phòng lớn khoảng ba chục mét vuông, nơi ăn ngủ của bốn mươi tù nhân nam.Còn bước vào quẹo trái chỗ trưởng phòng là một căn phòng nhỏ hơn để nhốt tù nhân nữ. Trưởng phòng vẫn là Thạch Sari. 

Cũng nhờ vậy mà hay, hơn nữa tụi du đãng rất phục những người có học (Sĩ quan mà lị). Tụi nó không còn ăn hiếp người mới vào nữa,  sinh hoat không thay đổi. Tự nhiên tôi thành cố vấn của tụi nó. Có chuyện gì tụi nó cũng hỏi ý kiến tôi, kễ cả chuyện riêng tư nữa. Có điều mỗi tối tôi phải kể chuyện kiếm hiệp cho tụi nó nghe it nhất là nửa giờ. Bù lại tôi được uống trà, café, hút capstan…Nhiều khi mình ma giáo chut chut nên đến hồi gay cấn tôi ngưng ngang hẹn tối mai kể tiếp.  Đâu có đứa nào chịu, chúng nó nhao nhao lên :

-  Anh hai nằm xuống, tụi em đấm bóp cho anh hai khỏe, kể xong đoạn này  rồi mình ngủ luôn. Ba bốn đứa, bóp tay, bóp chân, nắn lưng…Cứ như thế, tôi kể hết Võ lâm Ngũ bá đến Anh hùng xạ điêu, rồi Thần Điêu đại hiệp, sau cùng chưa hêt Cô gái đồ long thì tôi gĩa từ khám nhỏ để vào khám lớn nhưng phải ở phòng tối.(CIA mà lị). Được đối xử đặc biệt hơn người khác.

Khi còn ở ty cảnh sát tôi không phải làm gì cả. Cứ kêu tên đi tạp dịch thì tự động có người ra làm. Tụi nó nói:
-              Anh hai cứ ở nhà nằm nghỉ, khi nào đến người cuối cùng anh hãy ra. Tụi em ở đây vài ba tháng là cùng, anh hai thì sẽ mệt lắm đó. Liệu mà khai báo ít ít thôi, càng ít càng tôt. Thành thật khai báo sẽ không có ngày về đâu, tự giác là tự sát đó.-
-              Chú đừng lo,  anh biết anh phải làm gì.

Mỗi tối tôi thường ngồi kiết già, quay mặt vô tường thiền mười phút và mười phút sau vẫn trong tư thế đó nhưng không thiền mà là cầu nguyện,  tâm tình với Chúa. Sau này có đứa biết nên đến giờ thiền của tôi tụi nó không ồn ào nữa.

Những ngày ở khám nhỏ, tự nhiên mình được làm “trưởng lão cái bang”, chẳng phải làm gì,  ăn uống có người lo. Có những anh em còn trong khám thì “Thủ cẳng” dữ lắm. Đến khi được tha về vẫn không quên “Anh Hai” nên có những món qùa mà tôi không biết ai gửi vào nữa. Tôi bị bắt chỉ một mình tôi biết, nhà tôi đâu có ai hay, vậy mà có đồ thăm nuôi mới lạ chứ. Cũng chẳng có gì to lớn : Mớ tép tươi, bó rau muống, bịch me chua, gói thuốc Basto, mấy con khô…Không đáng gì nhưng tình người qúa đi chứ. Và đến bây giờ tôi cũng chỉ đoán thôi chứ không biết đích xác ai là người gửi những “Chút tình” đó.

Một ngày không đẹp,  trời mưa lâm râm, tôi cũng được mời đi khai baó, bước ra ngoài , nhìn tay chân mình sao mà trắng thế, trắng xanh xao bệnh hoạn, mới có mấy tháng sao thấy mình tệ quá.

                                                           **************************

Phòng thẩm vấn gồm một cái bàn gỗ tạp, ba cái ghế đẩu. Người cán bộ ngồi xuống vị trí chủ nhân, tôi ngồi đối diện, phía tay phải là một bộ đội ngồi ôm khẩu Ak lên đạn sẵn, chắc là nếu tôi mà cựa quậy là phơ liền.
Giọng cán bộ miền Nam:
-              Anh có thấy thoải mái không ?
-              Có, “rất thoải mái”
-              Vậy chúng ta bắt đầu làm việc, tôi hỏi đến đâu anh trả lời đến đó.
-              Nhất trí với cán bộ.
-   Anh cho biết tất cả những mạng lưới của anh từ Phú quốc đến Hòn Sơn rái, hòn Nghệ, hòn Tre và Rạch gía.
-  Tôi không hiểu cán bộ muốn nói gì? Tôi là sĩ quan Hải quân; chưa làm nghề đánh cá bao giờ làm sao có lưới ?
-  Anh đừng ngoan cố, tụi tôi có đầy đủ hồ sơ về anh, tôi thẩm vấn chỉ là để xem anh thành thật đến mức nào thôi. Anh nên nhớ thành thật khai báo là thước đo lòng tự giác của mọi người. Ngày về của anh gần hay xa là ở chỗ này đó. Anh phải biêt rằng, cách mạng Việt nam đã đánh thắng hai tên đế quôc đầu sỏ thế giới là Mỹ va Pháp.  Đế quốc Mỹ sẽ đừng hòng trở lại Việt nam lần nữa, anh cũng đừng trông mong tụi Mỹ trở lại, chỉ uổng công thôi, lại thêm thời gian cải tạo càng dài.
-  Tất cả những điều tôi nói đều là sự thật, trong quân đội miền Nam được phân chia rõ ràng. Sĩ quan tác chiến chỉ lo việc tác chiến. Bên Hải quân thi sĩ quan chỉ huy là chỉ huy, chính tri, an ninh, tình báo…do những sĩ quan chuyên ngành đảm nhiệm. Mọi tin tức tình báo chúng tôi có được là do phòng an ninh tình báo cung cấp chứ không do lưới của chúng tôi.
-  Tôi biết anh còn đang lợn cợn, chưa vững tin vào chính sách của đảng và nhà nước nên chưa thành thật khai báo. Thôi cũng được, anh hút thuốc.
Tôi lấy gói thuốc rê quấn một điếu ngồi hút, người cán bộ nói tiếp:
-  Cuộc thẫm vấn hôm nay coi như tạm ngưng, anh hãy về đào sâu suy nghĩ, soi rọi bản thân để lần tới mình làm viêc có kết qủa hơn.. Còn bây giờ mình nói chuyện chơi như hai người bạn, anh đừng e ngại gì hêt.
Tôi chỉ dạ cho qua chuyện, người cán bộ hoỉ:
-              Anh nghĩ sao về đế quốc Mỹ ?
-              Là kẻ thù của tôi.
-              Anh làm việc với Mỹ mà lại coi Mỹ như kẻ thù sao ?
-              Nếu cách mạng có bom nguyên tử, tôi tình nguyện đem thả xuống đất Mỹ.
-              Anh mang quân hàm «  quan ba » ,chắc nhiều huy chương lắm nhỉ ?
-              Lính Hải quân mà kiếm được cái huy chương đâu phải dễ, ngoại trừ những huy chương tự nhiên có như: Quân phong bội tinh, quân vụ bội tinh, hải vu bội tinh…những huy chương này chỉ cần giữ kỷ luật,  đi biễn trên hai năm… là ai cũng có. Riêng tôi có thêm được một ngôi sao bạc hồi khai phá U minh, một ngôi sao bạc nữa hồi ở căn cứ Hải quân Năm căn, vậy thôi.
-              Thật ra các anh là sĩ quan, mà đã là sĩ quan nếu không CIA thì cũng phải CIB, đúng không?

Tôi chỉ ừ hử cho qua chuyện. 

Thấy chẳng gỡ gạc đựơc gì nên hắn đưa tôi về phòng tối để tiếp tục soi rọi bản thân mà thành thật khai báo. Thêm hai lần thẩm vấn nữa cũng chẳng ăn thua gì nên tôi được xếp ngang hàng với những sĩ quan khác ở bên ngoài. Cùng được đưa vào trường cải tạo thượng hạ sĩ quan U minh thượng. Chỉ khi vào đến nơi mới được ngang hàng thôi. Còn từ trong khám đi ra thì mọi người thoải mái, tôi vẫn phải mang còng số tám.

Ngày rời khám nhỏ bịn rịn bao nhiêu thì ngày rời khám lớn cảm động bấy nhiêu. Dù tôi ítt tâm sự với ai nhưng mọi người biết tôi bị bắt “ngang xương” nên chẳng có tiền bạc, quần áo….nghĩa là vô sản chuyên chính. Mấy người quê Rach giá có thăm nuôi mỗi ngày, còn tôi thuộc diện cháu bà phước nên hết tháng này qua tháng khác đều sống « Không có gì ». Họ thông cảm hoàn cảnh của một sĩ quan thất thế nên khi ra khỏi phòng tối, nhiều người nhìn tôi aí ngại; người đưa cái này, người đưa cái kia…Khi đến nơi mở ra thì có hai tấm vải bông để trải ra nằm và đăp, một đôi dép nhật, một hũ mắm thái, một hũ mắm sặt, một tấm nylon.

Viếtt đến đây tự nhiên nước mắt tôi ầng ậng trào ra, cảm động quá, tình người quá. Mà cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng biết những người đó là ai, tên gì !

Khi biết tôi sẽ ra đi không có ngày trở lại khám lớn nữa, mấy người tự đông dúi cho tôi, người một gói. Hình như đám người này có dự trù trước hay sao mà họ cho vừa đủ mọi thứ tôi cần thiết. Nhờ họ mà tôi không lạnh lẽo trong mùa đông năm 1975 .

Vừa từ phòng tối bước ra, tôi được ưu ái móc còng số tám vào tay chung với một người khác cùng tên như tôi..Mọi người lên xe GMC của miền Nam, trực chỉ hướng Rach sỏi. Tôi nghĩ chắc nó đưa mình ra Bắc quá, đến chỗ cầu quay xe chạy xuống bờ sông, tôi chép miệng:
-              Rồi, không Côn Sơn thì Phú Quốc, mêt dữ à nha.

Mọi người xuống xe, lên tàu. Tàu chạy ra biễn rồi quẹo vào sông Caí Lớn, tôi chịu thua, chẳng biết được đưa đi đâu nữa. Có thể là Vị thanh, Hỏa lựu, có thể là Cây bàng, Cà mau…Thây kệ, nằm xuống cho khoẻ, tới đâu thì tới.
Tàu chạy một lúc đến rạch  Hốc hỏa thì quẹo vào;vậy là “Bù trất”.,chẳng biết đi đâu nữa. Khoảng năm giờ chiều tàu tấp vào bờ, không có bến bãi, chẳng phải khu dân cư, vài mái nhà lúp xúp.  Đoàn cải tạo cắt người nấu cơm,  ăn xong nằm ngủ với “màn trời chiếu đất”.

Tôi tìm chỗ bằng phẳng một chút, trải tấm nylon xuống, lấy tấm vải bạn hữu cho đắp lên rồi đi vào giấc ngủ tương đối nhẹ nhàng. Sáng sớm hôm sau thức dậy lãnh cơm ăn sáng xong; mọi người lội băng qua một cánh đồng hoang ngập nước đến đầu gối, đến trưa tới một xóm tân lập với dăm nóc nhà lợp lá dừa nước còn mới mẻ. Đoàn cải tạo dừng ở đây nấu cơm trưa. Đói qúa nên tôi tình nguyện vào tỗ nấu cơm, nấu xong mình có quyền lấy trước phần của mình. Đương nhiên là phải no nê hơn những người khác. Ăn xong lại băng đồng và vượt qua kênh làng thứ bảy, băng qua khu rừng sậy ngút ngàn thì tiến vào mật khu của Cộng sản thuở trước. Ở đây có một chòi canh cao khoảng mười mét, vài căn nhà cũ chứa lúa gạo và làm doanh trại cho bộ đội. Đa số là hầm hố, nhà làm dưới những lùm cây tràm cỗ thụ nên khó mà phát hiện được. Gỉa như phát hiện được cũng chỉ cho máy bay bắn phá thôi; còn hành quân tiêu diệt địch qủa là vô cùng khó khăn.


U minh thượng là vùng nước mặn về mùa khô, nước phèn và ngọt vào mùa lũ, chạy dài từ Chương thiện xuống Cà Mau, phần giữa là khu Hóc hỏa, kinh trung đoàn lan ra thứ bảy tới thứ mười một; tới ngã ba Tân bằng, Cán gáo, sông Trèm trẹm…Lui xuống Cà mau, Năm căn là U minh hạ.

U minh thượng hầu hết là rừng tràm bạt ngàn, lại đến khu rừng sậy bát ngát cao trên đầu người cả mấy thước;rồi tới rừng cây bàng, cỏ năn…Ngược ra sông cái là rừng dừa nước…Ô rô, cóc kèn và cây mắm, cây bần. Nếu hành quân vào đây thử hỏi mỗi ngày người lính quốc gia lội được mấy cây số ??? Hầm chông, mìn bẫy…Địch thì chẳng có bao nhiêu, mà nó bắn thì mình chết. Bắt được nó đem về thẩm vấn thì nó là một công dân Việt nam với đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Dân chúng ở đây đa phần là Việt cộng, sống bằng nghề đốn tràm thuê. Tới mùa nước nổi thì giăng câu bắt cá, gác kèo ong lấy mật đem bán. Nước rút thì bắt cá làm mắm, vừa để ăn, vừa bán.. Mật ong rừng tràm là loại đặc sản quý nhất đó, tổ ong làm trong rừng tràm, mặc sức hút nhụy tràm nên phẩm chất mật rất tốt. Còn cá thì khi nước lên giăng câu, đặt lờ đặt lợp, cá nhiều vô số kể. Giăng câu ở đây chỉ giăng ở sông rạch thôi, còn trong rừng sậy thì thả câu; thả câu khác hẳn giăng câu : Chặt một cây sậy, cắt ra thành khúc dài năm tấc,  chừng năm chục khúc là đủ.Lấy sợi nhợ dài năm bảy tấc cột một đầu vào giữa khúc sậy, đầu kia cột lưỡi câu xong cuốn lại bỏ vào bao cát. Trước khi đi, bắt trùng hay tép làm mồi, chuẩn bị cơm nước đầy đủ trong ngày. Sáng sớm đi vào rừng sậy, vào sâu khoảng năm chục mét thì bắt đầu. Nhớ đi đên đâu phải bẻ sậy làm dấu thật kỹ và liên tục. Nếu không, khi vào sâu trong rừng sẽ không tìm được lối ra vì mất phương hướng, gặp ngày trời mưa là kể như ở trong rừng đến chết, ai về được là may mắn lắm. Bắt đầu tìm hai bên, chỗ nào trống một chút thì thả dây câu ra chừng hai tấc, móc môì rồi thả nỗi ngay giữa chỗ trống; khi cá ăn mồi nó sẽ lôi đi và cần câu sẽ lăn thả hết ba tấc nhợ quấn trong cần câu ra, thời gian này đủ cho cá nuốt mồi. Khi cá lội đi cần câu sẽ vướng những thân sậy bao quanh và cá cũng chẳng lội đi được, nằm đó quẫy lên vài cái chờ người đến bắt. Chiều xuống thu câu về, theo dấu sậy mà ra khỏi rừng.

Sau khi nước rút, người dân chỉ cần vào trong rừng tìm mấy cái hố bom mà tát, cá lớn đem bán, cá nhỏ làm mắm ăn cả năm .

U minh hạ hầu như toàn là cây mắm,c ây bần và nhiều nhất là cây đước còn gọi là rừng đước, lúc nào cũng ngập mặn đến đầu gối, thắt lưng.

Đến lúc đó tôi mới hiểu ra rằng: Sở dĩ nó đi lối Hốc Hỏa là để đánh lạc hướng của mọi người, muốn trốn trại không phải chuyện đơn giản. Cũng khó lòng nhớ lại con đường đã đi qua. Bình thường mình đi từ Xẻo rô vào kinh Cán gáo, rồi vào kinh làng thứ bảy; đường sông rộng rãi, thênh thang, lại gần hơn.

Tụi nó đánh gía sĩ quan Quân Lực Việt Nam  Cộng Hoà sai lầm qúa. Những sĩ quan cải tạo ở đây đa phần là dân vùng bốn. Không sư đoàn 21 thì cũng là địa phương quân, nghĩa quân…Với khả năng của một sĩ quan, chỉ cần nói đến địa danh nào đó là họ biết ngay  vị trí chính xác, lối vào, lối ra….Có điều đã trình diện đi học tập thì ai trốn làm gì. Đã chủ trương trốn thì ai daị gì chui đầu vào đây. Tuị này ấu trĩ thật.

                                                       **********************************

Vào đến khu cải tạo rồi, nhiều anh em hối tiếc sao mình không trình diện sớm; giờ những người học khóa trước săp ra về rồi, mình học khóa sau phải về sau.
Hình ảnh đập vào mắt tôi đầu tiên là những người cải tạo tay cầm một khúc tràm bằng cổ tay, dài chừng năm tấc cứ thế đập vào một cây tràm dài, ai ai cũng làm vậy. Thì ra họ đang bóc vỏ tràm; đập cho vỏ tràm tét ra rồi lấy tay bóc và tuốt cho đến ngọn.

Những người này vào đây từ ba tháng trước, họ đang xây dựng thêm nhà để chứa cải tạo viên. Toàn bộ nhà làm bằng cây tràm, sàn nhà cũng là cây tràm ghép lại nên mỗi lần nằm xuống phải lựa thế, nếu không, không thể nào nằm được vì những chỗ lồi lõm, thấp cao. Hai bàn chân đau qúa, suốt sáu năm đi giầy, lại nằm trong khám ba tháng. Giờ hai bàn chân không, lội ruộng suốt một ngày nên sưng lên, phải đi khập khiễng.

Sau khi ổn định chỗ ăn, ở,mọi người đi vào chương trình cải tạo. Toán đầu tiên cũng như toán cưối cùng, ăn chung, làm chung, có nhiều người ở toán sau lại về trước.

 Đầu tiên là khai báo lý lịch ba đời nội ngoại; sau nữa là bản thân đã chống phá cách mạng như thế nào? Có nợ máu hay không, nợ máu, nhiều hay ít. Thành thật khai báo sẽ chứng minh các anh đã giác ngộ, đã thấu hiểu chính sách, đường lối của nhà nước…và ngày về của các anh đều tùy thuộc vào sự khai báo này. Các anh hãy tâm đắc, soi rọi bản thân, đào sâu suy nghĩ đễ khai báo cho rõ ràng, thành thật.
Điều này đúng thật đó,nhưng mình phải hiễu rõ ý của cán bộ mới được.Nghĩa thật rõ ràng là anh nào  thành thật khai báo thì học tập “Mút chỉ cà tha”; anh nào khai láo lếu, biết dấu diếm thì về sớm, đúng tự giác là tự sát. Xong phần lý lịch đến bài học thứ nhât:  Đât nước ta giàu đẹp, nhân đân ta anh hùng. Người cán bộ hùng hồn:

-              Các anh có thấy đất nước ta giàu đẹp thế nào chưa? Ngay trước mắt các anh, trong rừng U minh có mỏ cá rô, ngoài biển có mỏ cá nục…Tôi đi trên trực thăng thấy trên mặt biển có mỏ dầu, dầu lai láng. Các anh có biết cách khai thác dầu thế nào không? Lớp đầu tiên là dầu ăn, thứ dầu bán ở chợ mình hay mua về chiên cá đó, sau đó là đầu cặn, rồi tới dầu xăng…Ngoài biển nước ta nhiều mỏ dầu lắm đó. Đế quốc Mỹ không biết khai thác, giờ có các chuyên gia Liên sô giúp đỡ; mai mốt dầu ăn, dầu chạy xe, xăng nhớt…rẻ rề.

Mà rừng U minh nhiều cá rô thật đó, cá từ các hố bom trong rừng; liu kĩu từ năm này qua năm khác, trời đổ mưa là sinh sôi nảy nở. Rồi theo con nước tràn ra sông rạch hàng đàn hàng lũ, nhiều vô số kể. Ngồi trong nhà tôi vẫn có thể bắt được vài chục con thật dễ dàng; vậy nên bạn bè gọi tôi là Kỳ rô; đâu ngờ rô, trê, lóc… gì tôi cũng bắt tuốt luốt.

Cứ thế, suốt ba năm, học tám bài; và bất cứ trại cải tạo từ Nam ra Bắc cũng chỉ có tám bài thôi. Chỉ có tám bài mà có người học hai năm, có người năm, mười năm, có người tới hai mươi năm…học vẫn chưa xong !!!

Sau khi lên lớp vài bài thì các cải tạo viết bài thu hoạch, giống như mình đi thi vậy đó. Cứ như thế, học xong vài bài thì tiếp tục lao động, mấy tháng sau lại học vài bài nữa. Bây giờ không cất lều trại nữa mà các cải tạo phải đi tìm những cây tràm to, thẳng, …đốn về rồi đẽo gọt cho thật đẹp để mỗi cán bộ được vài ba bộ kèo, cột đem về làm nhà hay đem bán…
Lại có tổ thợ mộc để đóng giường, tủ, bàn ghế…cho cán bộ.

Gần một năm thì gia đình được thăm nuôi, những người được bình bầu là lao động xuất sắc nhất được viết thư về đễ baó cho thân nhân biêt mà đến thăm.

Nội dung một lá thư như sau:

Cộng hoà miền Nam Việt Nam
Độc lập - tự do - hạnh phúc.

Anh xin báo cáo để em và các con nắm được, hiện anh đang phấn khởi hồ hởi học tập cải tạo tai trường cải tạo thượng hạ sĩ quan rừng U minh thượng. Anh vẫn mạnh khoẻ và được các cán bộ quản giáo chăm sóc từ miếng ăn, giấc ngủ. Ngày ngày đi lao động nên anh đã biết “Lao động là vinh quang”. Ở đây không thiếu thốn gì hết, đừng lo lắng cho anh,.Hãy tin tưởng vào chính sách của nhà nước; học tập xong anh sẽ về đễ xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nếu có vào thăm anh, em nhớ đem cho anh.

-              Một lon mắm ruốc xào  xả ớt.
-              Một lon muối mè.
-              Một ký cá khô.
-              Một ký đường.
-              Mươi đòn bánh tét.
-              It thuốc cảm cúm và trụ sinh.
-              Vài trăm gram thuốc rê hay vài bánh thuốc lào cũng được. 

Trại thăm nuôi là cái chuồng heo cũ, còn vài con heo nhốt ở đầu nhà. Trong nhà đóng một cái bàn dài chừng hơn mười mét bằng cây tràm; hai bên hai hàng ghế cũng bằng cây tràm. Hai đầu hai cán bộ ngồi nghe thân nhân và cải tạo nói chuyện; sợ nghe không hết nên có thêm hai cán bộ nữa trang bị súng Ak đi qua đi lại mỗi bên. Mỗi người được thăm nuôi, trò chuyện mười lăm phút. Phải nói lớn, không được nói nhỏ hay ra dấu.
Có một chị đi thăm nuôi chồng, vào đến chỗ thăm nuôi là xỉu ngay. Hôm sau về mấy người hỏi thăm chị nói:
-  Nhìn đường vào U minh em sợ qúa, đến cuối trạm em thấy ghê hồn nên xỉu luôn. Từ chỗ thăm nuôi vào đến trại cải tạo còn đi cả cây số nữa.

Sang năm thứ hai, khi mùa mưa đổ xuống là mọi người đi phát sậy để lấy đất làm ruộng. Cái này mới gian nan, phát sậy phải lột da ếch, nghĩa là phát thật bằng  ngang hay dưới mặt đất vài ba milimet, phát chừng trăm công rồi gieo mạ. Khi mạ đủ lớn thì nhỗ mạ đem đi cấy,c ấy lúa xong lại vào rừng đốn tràm cho cán bộ đem bán lấy tiền bỏ túi. Tới mùa lúa chín thì gặt hái, thu hoạch. Sau khi cấy lúa xong thì đi cấy tràm ở những khu toàn cỏ năn thôi. Cấy lúa thì ba tấc một cây, tràm thì  từ sáu đến tám tấc. Có những cây tràm non khi nhổ thì rễ tùm lum, bực mình vì không cắm xuông được, người cải tạo bẻ ngay gốc rồi cắm xuống, chẵng cán bộ nào biết được. Người bạn cắm những cây tràm bẻ gốc xuống còn đọc thơ nữa :

     Mười phần chết bẩy còn ba,
    Chết hai còn một mới ra cây tràm .

Rồi đến hạn ba năm thì số cải tạo viên chỉ còn dăm trăm, trong đợt tha gần cuối có tên tôi. Mừng qúa, tôi bàn giao toàn bộ đồ đạc cho những người còn ở lại rồi lên đường. Toán  đựơc tha đã đi từ buổi sáng, đến gần trưa mới tới phiên tôi vì cán bộ quên mất một tờ danh sách được tha, hú hồn.

Mười mấy người mướn đò về thứ ba; xong đón đò ở thứ ba ra Rạch Sỏi.. Đò vừa cặp bến đã có tiếng reo vui:
-  Anh Kỳ, tôi đây nè, mừng qúa. Thì ra một người bạn tù, hắn là hạ sĩ cơ khí. Đáng lẽ không phải đi cải tạo nhưng bị kẻ thù tố cáo sao đó nên hắn cũng vào U minh chín tháng mới được tha. Trong trại hắn chơi thân với tôi vì hai đứa cùng họ, lại thêm cùng binh chủng Hải quân nữa. Hắn tên Pham Minh Khanh, tôi bước lên cầu tàu, hắn mừng mừng tủi tủi:
-  Trưa nay đang đap xích lô, tôi thấy có một đám được tha. Chạy lại hỏi có ông không, tụi nó nói có. Tui chạy về báo cho vợ tôi biết rồi thay đồ, nghỉ đạp xe, ẵm con ra bến đò đón ông đó. Bây giờ mọi lo nghĩ để qua một bên, tối nay tôi sẽ tẩy trần cho ông.

Tôi về nhà hắn, ắm rửa, thay đồ rồi ăn cơm. Dù chỉ ở túp lều đạm bạc nhưng bữa cơm có khổ qua nhồi thịt, cá rô chiên và đĩa thịt ba rọi kho, cơm trắng, tình nghĩa làm sao ! Tối đến hắn đưa tôi vào một căn nhà rất nên thơ, nhà sàn trên mặt ao, có cầu lớn đễ tắm rửa, ngồi vừa câu cá, vừa nhậu được. Có cả dàn pick up nữa.

Ngồi hút thuốc, nghe nhạc một lúc thì nó đem một mớ ghẹ luộc ra chấm muối tiêu chanh, sau đó là món sò huyết nướng. Đêm đó có một người bạn cùng về và ở lại với tôi, hắn cao hứng nên uống đến say khướt luôn. Sáng hôm sau ra chợ Rach Sỏi ăn sáng rồi lên xe về nhà. Người bạn đi chung cứ nhìn tôi, sau cùng hắn nói:

-  Tao phục mày thật đó. Tao chưa thấy mày hơn tao cái gì hết, còn thua tao nữa là khác. Vậy mà ở đâu mày cũng được mọi người tiếp đón, giúp đỡ, thương mến. Đi tù về mà có người chờ đón, lại chẳng phải anh em, bà con gì cả thì chỉ có một mày thôi .

Viết đến đây, nước mắt tôi lại rưng rưng. Xin cám ơn những người bạn, những người bạn thật đúng nghĩa là bạn. Không so đo, không tính toán…và có những người cho đến bây giờ tôi vẫn không biết họ là ai!                                        
                                                                                                                                                                                Minh Kỳ

(1) Bễ dâu: trước là biển,nay thành nương dâu
(2) Lưu Bằng: Bạn bè xa lạ ( Lưu Bình, Dương L)
(3) Đât trích: Đất tù đày, Kình ngư: Anh hùng
(4) Thường đảm: Nếm mật