Bài Thơ "Đại Hạn"
và Nỗi Lòng Tú Xương Trước Nạn Nước
- Nguyễn Văn Hùng
và Nỗi Lòng Tú Xương Trước Nạn Nước
- Nguyễn Văn Hùng
Ngày nay đá nát với vàng phai
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nỗi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi.
Tú Xương (1870- 1907), cuộc đời 37 năm ngắn ngủi nằm trong một giai đoạn bi thương nhất của đất
nước : Mất Lục tỉnh Nam Kì, mất Bắc Kì, Hiệp ước Harmand (1883) rồi Hiệp ước
Patenotre (1884) thừa nhận quyền thống trị của thực dân Pháp, các phong trào
kháng chiến diễn ra dồn dập nhưng lần lượt thất bại. Một người ưu thời mẫn thế
như Tú Xương tránh sao khỏi chua xót, viết
Đại hạn chính là để thể hiện một thái độ
của ông trước đại nạn của đất nước.
Mở đầu, ông sử dụng thành ngữ đá nát vàng phai (có
bản ghi: Dạo này đá chảy với vàng trôi) có tính chất khoa đại để lưu ý tình thế
nghiêm trọng. Ba câu tiếp, các từ được ông chia tách ra : Khi thì mỉa một tình
thế bất ổn, nhấp nhỏm lo toan (đứng lại ngồi), khi ông mắng sự mê muội tắc
trách (ăn với ngủ), từ nước non cũng bị ông méo mó thành nước cùng nôi do ép vần,
từ lại sát vớ cảnh hạn hán vừa có tính chất mai mỉa. Hai câu luận: cảnh ruộng nẻ,
ao khô bế tắc tột cùng, chua chát cao độ. Đến hai câu kết, ông dùng cách phiếm
chỉ (tình cảnh nhà ai), tự đặt mình ra ngoài và cuối cùng “Quạt mo phe phẩy một
mình tôi”, thể hiện thái độ như là mặc kệ, như kiểu ung dung đắc ý, ai rối cứ
lo, không liên quan gì đến mình.
Nhiều người đã khen Tế Xương giỏi chọn bắt những
chi tiết rất gần, rất thực của đại hạn tự nhiên rồi ẩn dụ so sánh bóng gió
nhưng sâu xa về nạn nước, đại nạn quốc gia xã hội. Bài thơ thể hiện cảnh thấp
thỏm rối bời đồng thời phê phán sự mù tối, tắc trách dẫn đến tình thế bế tắc.
Người ta khen cách tả cách luận của Tú Xương nhưng chê thái độ của ông trong
câu kết: “Tình cảnh nhà ai nông nỗi ấy, Quạt mo phe phẩy một mình tôi”. Rằng là
người hiểu thời cuộc nhưng ông tự đặt mình ra ngoài thời cuộc, bỡn cợt trước cảnh
bi đát của dân tộc. Thái độ bất lực, vô trách nhiệm, bàng quan không xứng là
thái độ của con dân đất Việt.
Rõ ràng trước tình cảnh mất nước, dân tộc đắm chìm
trong nộ lệ, Tế Xương bất lực. Ông cười nhưng phải chăng ông vô trách nhiệm? Phải
chăng ông đau thì ít mà ông ác thì nhiều? Đây là một bài thơ trào phúng. Trào
phúng phải nén nỗi đau để cười, nó là một loại “tiếng khóc khô không lệ” trước
những vấn nạn xã hội. Đau mà khóc- chuyện
thường. Đau mà cười- chuyện không bình thường, biết đâu chẳng vơi bớt mà càng
đau hơn. Hữu tình mà cứ như vô tình, dằn vặt lo lắng mà cứ như buông thả, mặc kệ.
Ở trong cuộc, xót xa vì cuộc thế mà cứ như tách ra ngoài cuộc. Phát hiện, thấm
thía nỗi đau mà bất lực đâm ra chua chát với đời, với người và cả với chính
mình.
Trước tình cảnh Đại hạn, Tú Xương không khóc lóc
kêu than, không hô hào “chống hạn” để giải nạn nước, ông bế tắc, bất lực- ông
cười! Ông tự đẩy mình ra ngoài để lạnh lùng xem xét, để vạch cho hết sự tình. Tự
đẩy mình ra ngoài để tự bêu riếu sự bất
lực của mình, chưa hết, còn cho người đọc nguyền rủa mình. Bài thơ trào phúng của bậc cao tay, nhập nỗi
đau đời vào nình, nén đến tận cùng nỗi đau xót cuộc đời rồi chua xót đến tàn nhẫn
với bản thân mình. Ông làm như trách đời nhưng là tự trách mình, làm như ác với
đời nhưng thực chất có ác là ác với chính bản thân ông vậy. Đây là sự bất lực,nỗi
đau của kẻ sĩ trước nạn nước.
Ối! Tú xương yêu nước, thao thức với vận nước, cứu
nước ông không làm được nhưng mất nước đâu phải vì ông mà tự dằn vặt đến thế.
Nguyễn Văn Hùng
03-08