Monday, December 24, 2012

Mái m Gia Đình Cô Tôi - Lê Thị Ba
                                                                               
Năm lớp nhì, tôi học với cô Hồ thị Thúc Trải tại trường Nữ Tiểu học Quảng Trị. Qua bao tháng ngày đến hôm nay, tôi lại dạy những người con của cô ở trường Trung học Đông Giang Hoàng Hoa Thám Đà Nẵng. Một niềm hãnh diện và tự hào đến với tôi vì những người con của cô giáo ngày xưa thật giỏi giang và đức hạnh.
Tôi thường đến nhà thăm cô thầy, một căn nhà đơn sơ, giản dị, nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Nhìn ảnh ngày xưa của cô treo trên tường, tôi là phụ nữ mà cũng ngẩn ngơ. Một sự xinh tươi tự nhiên hòa quyện với nét đoan trang, phúc hậu. Tôi nói đùa với con gái cô: “ Chà, Nguyễn Du khi tả Thúy Vân là có nhìn tấm ảnh này của mẹ em đó”. Khi tôi hỏi những người bạn cũ của cô, họ đều nói: “Thúc Trải hả? Hoa khôi chợ Sải ngày xưa mà, hiền mà siêng học lắm”
Cô là con gái gia đình quyền quý, mẹ của cô là bà Phán trâm anh, đài các. Ngày tháng đó, nếu nói cô là gái quê cũng đúng mà tiểu thư cũng không sai vì ngoài giờ đi học, cô chỉ ở trong nhà, lúc nào cũng kín cổng cao tường. Nhà ở gần đồn lính, cô thiếu nữ đi học về thường bị chọc ghẹo nên sau khi đỗ Primaire (Tiểu học), học Đệ thất, Đệ lục Nguyễn Hoàng, bà Phán quyết định cho ở nhà, tập tành nữ công gia chánh chờ lớn gả chồng cho yên bề gia thất. Nhưng cô gái ham học, tính tình nhu mì, hồn hậu khóc nhiều vì phải bỏ ngang không được tiếp tục đến trường khiến hai anh trai( Hồ Doãn Tiềm, Hồ Doãn Toàn) năn nỉ mẹ và cuối cùng một giải pháp được đưa ra: cho học tiếp, nhưng phải vào Huế.
Tôi hỏi Quỳnh Nga, con gái thầy cô: “Em đừng trách nghe… sao ba chẳng đẹp trai mà tán được mẹ hay vậy ?” Nga cho biết thầy thương cô từ khi cô mới lớn ngay  phút gặp đầu tiên, nhưng dấu kín trong lòng. Có thời gian thầy phải nghỉ học để làm nghề với cha vì gia đình thiếu nhân lực, sau đó học băng để bù vào thời gian nghỉ và cũng quyết định vào Huế học như cô. Vượt qua bao thiếu thốn mọi bề, phải đi dạy kèm, phải dè sẻn chắt chiu từng đồng tiền kiếm đươc, cậu học sinh trường làng ngày nào, một phần muốn chứng tỏ với bạn bè trường Khải Định (Quốc Học) và một phần bởi tình yêu thúc đẩy đã thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 1957.
***
Thầy cô có 6 người con được thừa hưởng tính tình hiền hậu, ham học của mẹ và ý chí mạnh mẽ của cha đã trưởng thành một cách đáng nể. Hầu như học sinh Nguyễn Hoàng đều biết thầy Đoàn Trọng Cang, dạy hay và rất nghiêm. Có lẽ yếu tố đó đã khiến con cái thầy thành đạt. Sau 1975, thầy không được dạy. Phường yêu cầu gia đình đi kinh tế mới nhưng vì gia cảnh nuôi cha già yếu nên ở lại địa phương và thầy ngày ngày đi xe ôm, làm thêm gò hàn. Còn cô nhận ở hợp tác xã, tối về ngồi bó chổi đót với các con. Cô vẫn còn dạy, nhưng mỗi lần giáo viên đi lao động tập trung, thầy nghỉ chạy xe, đi lao động thay vì cô bị suyễn, đến năm 1990, cô phải nghỉ dạy vì quá yếu.
Đó là những tháng ngày đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, tuổi học hành. Dù chạy ăn từng buổi toát mồ hôi nhưng đêm đêm, thầy vẫn giảng toán, lý, hóa cho con và chăm sóc cô vô cùng chu đáo. Các con hoàn toàn không đi học thêm mà tự học là chủ yếu. Dù bữa cơm vẫn còn độn sắn, khoai, bo bo… nhưng chất văn hóa, tri thức lúc nào cũng nguyên vẹn, tràn đầy. Căn nhà nhỏ của thầy cô là trung tâm luyện thi đại học có một không hai. Sáu người con, dưới sự dạy dỗ của một vị thầy duy nhất kiêm luôn 3 môn đã thi đỗ đại học ngay năm đầu và không những vậy mà còn tiến lên đỉnh cao khiến bất cứ gia đình nào cũng nghiêng mình kính nể:
- Đoàn Thế Hiếu, Tiến Sĩ Toán học, được phong hàm Phó Giáo Sư, Trưởng khoa toán trường ĐHSP Huế
- Đoàn thị Quỳnh Nga, tốt nghiệp ĐHSP môn Vật Lý, dạy học tại trường THPT Ngô Quyền, Đà Nẵng
- Đoàn Thế Thảo, Tiến sĩ Cơ khí (Hàn Quốc), giảng dạy chuyên ngành Cơ điện tử tại Đại học Khoa học thành phố Hồ Chí Minh.
- Đoàn thị Ngọc Trai, Tiến sĩ ngành Kiểm toán kinh tế, giảng dạy tại Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng
- Đoàn thị Ngọc Bích, Thạc Sĩ Quản Lý, giảng dạy tại trường Cao Đẳng Giao thông vận tải Đà Nẵng
- Đoàn thị Quỳnh Như, Thạc sĩ Y khoa, Hiệu phó trường Trung học Y tế Lâm Đồng.
Những mảnh bằng ấy càng lấp lánh hơn vì được ra đời từ chuỗi tháng ngày cực kỳ khó khăn: Hiếu, Quỳnh Nga và Thảo năm lớp 6,7,8 theo học trường Nguyễn Hoàng tại trại tạm cư Non Nước Đà Nẵng; Thảo những năm học đại học thường đạp xích lô trên đường phố SàiGòn; Quỳnh Như gần ngày thi Y khoa phải qua nhà hàng xóm ngồi học vì mẹ đau yếu, nhà chật, người ra vào… Một gia đình nhà giáo thanh bạch, trong bao gian khổ đã có ba Tiến sĩ, hai Thạc sĩ, một Cử nhân. Có gia đình chỉ được một đứa con đỗ Tiến sĩ, người ta cũng quá tự hào và mãn nguyện rồi. Thầy Đoàn Trọng Cang đúng là “hổ phụ sinh hổ tử”, “con hơn cha, nhà có phúc”. Nhưng sao chỉ nói “hổ phụ”, chỉ nói “ hơn cha”; thế thì cô giáo lớp nhì của tôi đâu? Đây rồi, đằng sau sự thành công của thầy, luôn có bóng dáng người phụ nữ là cô tôi đó. 

Lê Thị Ba