“Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh,
muôn chim hót vang lên êm đềm…”
Hầu như ai cũng biết lời nhạc thân quen đó của Phạm Trọng Cầu. Giai
điệu valse vừa rộn ràng, vừa êm dịu thật
lãng mạn như ru hồn người, in đậm mãi trong ta một sắc màu và một âm thanh.
Một màu xanh ám ảnh theo thời gian để giữ mãi màu xanh chốn cuộc
đời.Vòm cây che phủ tuổi thơ, màu xanh muôn lá hay màu mắt biếc nhìn đời một
thuở hồn nhiên của những mái đầu xanh. Không trang bị, thiết kế nhiều, chỉ một
hàng cây bao quanh là đủ rồi, thiên nhiên dịu dàng che rợp khoảng trời thơ
ngây, trường như giữa thung lũng xanh, không rực rỡ muôn sắc mà duy nhất một
màu tươi non rời rợi.
Len qua hàng cây là tiếng hót thánh thót, tiếng chim ca hoà quyện tiếng
em đọc bài, tiếng thầy giáo giảng, tiếng trống trường giục bước chân son… Âm
thanh trong trẻo một cách hiền hoà. Âm
thanh tuyệt vời hơn tất cả muôn dây đàn réo rắt. Tiếng hót non tơ vẫn đồng vọng
dù nơi chân trời góc bể, thanh lọc tất cả những tạp âm ầm ào của cuộc đời.
Ơi những ngôi trường, sao đơn sơ mà thương, mà mến vô ngần !
*
*
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi: “Ngôi trường đầu tiên có tự bao giờ?” để
rồi từ ngôi trường ấy bao nhiêu dòng bút mực chảy hoài trên trang giấy nhân
loại? Đối với dân tộc Việt Nam
thì ngôi trường của các thầy đồ chốn hương thôn có lẽ ra đời sớm nhất với nền
Hán học. Ngôi trường ấy trong vườn nhà thầy, không tường rào che chắn nên các
học trò nghèo như Trần Minh khố chuối mới có thể “ăn mày” được chữ thánh hiền để ngày sau làm nên công trạng.
Những ngôi trường đã đi suốt chiều dài lịch sử để hun đúc thành bao cây
bút sục sôi, ngùn ngụt lòng ái quốc: “ Ta
thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức rằng chưa xả thịt, lột da, moi gan, uống máu quân thù…” (Trần Quốc
Tuấn - Hịch tướng sĩ) hay tạo nên hồn thơ thăng hoa tiếng Việt ngàn năm: “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời.Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếng mau sầm sập như
trời đổ mưa” (Nguyễn Du - Truyện
Kiều)...
Trường nuôi dưỡng ý chí và làm phong phú tâm hồn nên biết bao thơ văn,
nhạc, họa… ra đời để khắc ghi một không gian trìu mến. Những áng thơ văn thời
học sinh sao vẫn còn hoài dù năm tháng trôi qua, dù vật đổi sao dời. “Tâm hồn cao thượng” của Hà Mai Anh năm
nào vẫn còn đó như minh chứng cho giai đoạn luyện rèn cần thiết không thể thiếu
của đời người:
(...) Cố lên ! Tên lính nhỏ trong đạo
quân lớn lao kia ! Cố lên ! Con ơi ! Lấy sách vở làm khí giới, lấy lớp học làm
quân đội, lấy thế giới làm bãi chiến trường, coi sự ngu dốt là cừu địch và lấy
sự văn minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn, con phải phấn đấu luôn luôn và
chớ hề làm tên lính hèn nhát. "
Trong tháng ngày ôm sách vở, có lẽ thời Trung học để lại dấu ấn sâu đậm
nhất bởi đó là lúc mới lớn, vừa làm học trò nhưng cũng bắt đầu khao khát khám
phá những chân trời mới lạ thú vị hơn như thi sĩ Đinh Hùng diễn tả: ”Khi mới lớn, tuổi mười lăm, mười bảy. Làm
học trò mắt sáng với môi tươi”. Đẹp quá! Linh động quá! nên bốn bức tường
lớp học làm sao đóng khung những ”hồn lơ
đãng mộng ra ngoài cửa lớp” để rồi
những gì phải đến đã đến:
Đã từng phen
trèo cổng bỏ trường về
Xếp đạo đức
dưới bàn chân ngạo mạn
Đời đổi mới
từ ngày ta dấy loạn
(...) Ta ra
đi tìm lớp học thiên đường
(...) Ôi! khoái
lạc của những giờ trốn học
(...) Hỡi
thành đô với linh hồn bách thảo
Có nhớ chăng
chàng tuổi trẻ tóc bay
Làm học trò
mà chẳng sách cầm tay
Có tâm sự đi
nói cùng cây cỏ.
Không chỉ là những câu thơ của Đinh Hùng mà còn trăm ngàn những vần thơ
khác ra đời vào cái thuở:
“Đi học chung
một trường.
Cách nhau mấy
cửa lớp.
Thầy giảng
bài không vương.
Mà vương tình
nhau sớm”.
Bởi thế cho nên không lạ lùng tại sao “dân” Nguyễn Hoàng nhớ hoài, nhớ
mãi một ngôi trường... Tên không còn nhưng mãi bất diệt, đó là điều kì diệu vì
nó tồn tại trong tim, trong thời gian vàng, không gian ngọc. Những trang viết
nơi hải ngoại hay trong nước vẫn tươi nguồn khơi lên từ mỏ quặng báu Nguyễn
Hoàng. Trường lớp, người thầy, bạn hữu… sao cứ đan vào nhau thành bao sợi tơ kỉ
niệm óng ánh để mỗi lần gặp gỡ là mỗi lần dệt nên bức hồi quang đằm thắm, say
mê.
Nhớ buổi họp mặt lần thứ nhất vào năm 2007, chúng tôi gặp lại nhau
trong sân trường. Trước đó thỉnh thoảng cũng có thăm nhau ở Sài Gòn, Nha Trang,
Đà Lạt, Ban Mê Thuộc… nhưng phải nói rằng gặp nhau ở Quảng Trị, trên mảnh đất
Nguyễn Hoàng mới thực sự là cuộc hạnh ngộ, tương phùng. Chúng tôi thi nhau nói,
giành nhau nhắc kỉ niệm, bật mí những mối tình chôn kín 30, 40 năm rồi cứ thế
mà cười khúc khích, cười xa vắng, cười chảy nước mắt hay ôm bụng cười nắc nẻ,
cười ngắc nga ngắc nghẻo khiến có ông chồng đã trố mắt hỏi vợ: “Bà điên à?”. Bà vợ trả lời: “Tui chộ ôông cười với bạn còn điên hơn tui
nữa đó”.
Buổi họp mặt đã kết thúc nhưng từng nhóm, từng nhóm vẫn ở lại Quảng
Trị. Nhóm 63-70 chúng tôi gồm Lê thị Chi Lan, Hồ thị Diệu Hoà, Phan Ái Đông, Lê
thị Ba cộng với các bạn ở Quảng Trị như anh Đính lớp trưởng Tứ 1, Nguyễn Lớn,
Văn Vĩnh Tài... đã thưởng thức thêm dư âm những ngày họp mặt với chuyến về quê
thăm các bạn cùng lớp gặp khó khăn hoặc rủ nhau đi ăn đặc sản Quảng Trị như
cháo cá, bánh ướt, nem lụi, chè bột lọc, ốc gạo, mít chín… ăn một cách trân quí
“ngậm mà nghe”, gật gù tán thưởng rồi
so sánh với các món ngon khác ở Sài Gòn, Đà Nẵng… thôi thì đủ thứ trên đời
không thiếu một tiết mục nào cả.
Chúng tôi rủ nhau dậy sớm, đi bộ từ khách sạn Thành Đô xuống đường Trần
Hưng Đạo trong sương mai quê nhà, vừa đi vừa định lại vị trí ngày xưa: đây là
bệnh viện Quảng Trị nì, chỗ ni là nhà máy nước đá Tấn Phát phải không, ngày xưa
đây là tiệm sách Lương Giang mà, đó là đường Lê Thái Tổ, chắc chắn 100%. Đến
đây Phan Ái Đông nói: “Nhà tau đây nì, ê
Ba, nhà Hoàng thị Thình, nhà Thể Quỳnh chỗ mô? Mi có nhớ mình đi học đường ni
không” Đúng rồi đường xưa đi học, ai mà quên. Đang bàn tán, gặp những người
dân quê đi chợ mua bán sớm, có một rổ đậy lá chuối đang bốc khói, Chi Lan hỏi: “Bán chi rứa o?”. Không trả lời ngay, o
thôn nữ giở ngọn lá chuối xanh, những củ sắn trắng nõn nà hiện ra nằm ngoan
ngoãn dễ thương trong làn hơi nóng thơm khiến cả bọn ồ lên trầm trồ hít vào mùi
hương đồng nội và mua ăn ngay dọc đường khen lấy khen để như thưởng thức củ
sâm, sướng vì bắt gặp dư hương ngày tháng cũ trong không gian Quảng Trị, bên
cạnh bạn bè, thật là thú vị cực kỳ như Tản Đà hay nói: món ăn ngon, chỗ ăn ngon, người ăn tri kỷ...
Đùa giỡn ở Quảng Trị hai ngày, sau đó chúng tôi quyết định đi thăm các
thầy cô giáo. Trên chiếc xe tắc xi thuê vào Huế những nữ sinh ngày nào cười nói
ỏm tỏi và cuối cùng chuyển qua hát hò, chủ đề là hát mấy bài lúc tê, mấy bài
hồi xưa. Trước hết giọng Lê thị Liễu (NH 69 - 72) cất lên: “Tan học rồi là tan học rồi! Nghiêm trang đứng lên chia tay ra về. Đi
đều hàng và không đùa cười…” Trời ơi là vui, Liễu mới hát câu đầu tiên là
cả bọn hát theo ào ào, rồi bình luận vui hè, vui hè, bãi học rồi mà “nghiêm trang”, rồi “không đùa cười”... ha ha, hồi Tiểu học mới rứa chứ lên Trung học
thì đố mà nghiêm trang và không đùa cười. Diệu Hòa tiếp tục chương trình với
bài hát để nhớ tiết mục múa của lớp Tứ 1 ngày nào: “Màn đêm xuống dần, muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng. Kìa bao mái
đầu không vướng sầu kề vai bước mau...”, Phan Ái Đông có vẻ lãng mạn hơn khi cất tiếng: “Thuở ấy không gian chìm đắm trong mơ, tà
áo em xanh màu mắt ngây thơ, nụ cười hồn nhiên không vương sầu nhớ...” Chi
Lan và Lê Thị Ba bắt bài hát: “Khỏe vì
nước kiến thiết quốc gia” hay là “Học
sinh là người Tổ quốc mong cho mai sau” và “Đây Bạch Đằng giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng...”.
Hùng khí vang lên ngút trời, tay vỗ, chân dậm, đầu nghiêng qua nghiêng lại, cả
nhóm hát say sưa hào hứng mạnh mẽ làm cho hành khách trong các xe chạy ngang
qua đều quay đầu nhìn lại, thắc mắc không biết đoàn văn công nào đây. Đến Huế
anh tài xế còn trẻ vừa nhận tiền thuê xe vừa nói: “Em đã chở rất nhiều đoàn khách, nhưng chưa gặp đoàn nào như các cô...
Hồi nãy các cô hát em cứ sợ cái trần xe em nó bung ra bay mất”.
Đến Huế, có thêm Cao Thị Nhàn, Lê Thị Kim Xoa, vợ chồng Lê Thị Anh, vợ
chồng Vĩnh Hòa, Châu Thị Khương, Phan Thị Hạnh... chúng tôi đến thăm cô Tường
Vy, cô Nhụ Hương, thầy Quật, cô Tâm Thạnh và thầy Gioang. Cảm động nhất là đến
thăm thầy Trần Văn Tuần, thầy ở xa thành phố, may nhờ có Kim Xoa nhớ đường nên
cả bọn tìm được nhà mặc dầu phải dừng xe hỏi 5, 6 lần mới đến đúng địa chỉ.
Chúng tôi nghe thầy bệnh nặng nên cách trở mấy cũng vượt qua, và buổi hội ngộ
làm vợ chồng thầy cô xúc động thật sự, thầy trò như sống trong tình cảm êm ấm
của ngày xưa, quên hết bao ưu phiền, bệnh hoạn. Vui nhất là lúc thầy trèo lên
cây hái dâu, cả bọn đứng dưới la lên: “Thôi
thầy ơi, thầy ơi, nguy hiểm”, thầy vừa hái vừa cười nói xuống: “Có chi mà lo. Các em đến thăm, thầy vui
mà”. Phút chia tay bịn rịn mãi, chúng tôi cứ nhìn hoài người vợ hiền trẻ
tuổi và xinh xắn đứng bên thầy nơi cửa ngõ mà thương ơi là thương.
Một mẩu chuyện khác lại đến, đó là có lần đến thăm nhà Thầy Thái Mộng
Hùng nghe kể chuyện khiến tôi cứ ngẩn cả người. Trước đây tôi nghe nhiều người
trầm trồ về thành tích học tập của anh Hoàng Trạch Thạnh (NH 54 - 58). Họ hết
sức ngưỡng mộ kể rằng: hồi ấy, mỗi tháng đều xếp vị thứ và lãnh bảng Danh dự về
nhà. Ngoài ra, tên của các học sinh có bảng Danh dự được niêm yết ở bản tin của
trường ngay cạnh cầu thang sát bên văn phòng, phòng thầy Hiệu trưởng. Tên học
sinh được bảng Danh dự mỗi lớp có tháng thì người này, tháng thì người khác
thay nhau chiếm vị trí, nhưng riêng lớp anh Thạnh thì không ai thay thế được vì
tháng nào anh cũng đứng nhất từ đệ thất lên đệ tứ.
Năm 1958, năm đầu tiên Quảng Trị được Bộ Giáo Dục cho thành lập Trung
Tâm thi Diplome (Trung Học) với khoảng 180 thí sinh của 3 trường Nguyễn Hoàng,
Phước Môn, Bồ Đề. Đơn vị Quảng Trị chưa được xem là một Hội đồng thi mà chỉ là
chi nhánh trực thuộc Hội đồng coi thi Huế. Ông Phạm Kiêm Âu được Bộ cử làm
Trưởng Ban coi thi và Thầy Nguyễn Cửu Triệp (hay thầy Nguyễn Đức Duyên ?) là
giáo sư Nguyễn Hoàng ở lại để lo việc sở tại. Không khí coi thi vô cùng nghiêm
khắc, nghiêm khắc đến độ căng thẳng, nặng nề nên tâm lý học sinh quá sợ hãi, mất
bình tĩnh, phần đông quên kiến thức, làm bài không được tốt bởi thế nên sau
buổi thi có phản ứng với các giám thị, chẳng hạn đến quán các thầy giám thị ăn
trưa ở đường Trần Cao Vân để làm reo, phá lốp xe... Quan hệ nóng lên nên coi
thi xong, các giám thị tức tốc vào Huế ngay, không dám ở nán thêm một phút nào.
Tất cả tình hình đó đều được hội đồng báo lại nên bài vở học sinh Quảng
Trị chấm rất chặt chẽ và kết quả chỉ có 8/180 học sinh thi đỗ. Thầy Thái Mộng
Hùng đang làm nhiệm vụ Tổng Thư kí Hội đồng thi Huế biết kết quả như sét đánh, các
thân hào nhân sĩ Quảng Trị xôn xao vì rất nhiều học sinh ưu tú của trường bị
rớt. Thầy Hùng bèn kiến nghị lên cấp trên là ông Nguyễn Văn Hai (sau này là
Khoa trưởng Đại học Khoa học Huế), thỉnh cầu thành lập Hội đồng chấm lại căn cứ
xét thành tích học tập 4 năm. Thế là thầy sở tại có nhiệm vụ mang toàn bộ học
bạ về Huế, Hội đồng chấm thi tiếp tục làm việc và được thêm 6 thí sinh thi đỗ,
trong đó có anh Hoàng Trạch Thạnh. Thế mới thấy hết giá trị thành tích học tập
hằng năm, sự quí hiếm của mảnh bằng Trung học vào thập niên 50 và cao hơn cả là
tấm lòng thầy Hiệu trưởng tranh đấu tới cùng cho quyền lợi học sinh cũng như
đáp ứng niềm kì vọng của nhân dân Quảng Trị.
Đương nhiên là có niềm kiêu hãnh khi được làm học sinh Nguyễn Hoàng để
hào hứng nhắc đến bao kỉ niệm hồi học trong trường. Có bạn đã kể với tôi câu
chuyện: Trong nhóm học sinh Nguyễn Hoàng đang tưng bừng nhắc lại tháng ngày đi
học, người này hỏi người kia, mi học năm mô, năm mô… Có một chàng lúc nào họp
Nguyễn Hoàng cũng có mặt, được hỏi cứ gãi đầu gãi tai, chống chế hoài, bị hỏi
dồn, mi có học Nguyễn Hoàng không ?, chàng ta trả lời có một cách yếu ớt, nhưng
không xác định năm nào mà nói thời gian học 2 tháng. Bị hỏi tiếp, học chi 2
tháng? anh chàng nói tau học hè. Cả nhóm cười ơi là cười, hóm hỉnh nói: làm chi
có học hè. Mà thôi, vì hâm mộ Nguyễn Hoàng quá mà, bắt quàng làm họ một chút
cũng dễ thương. Nhưng Nguyễn Lam Sơn (NH 66 - 68) không buông tha: “Ở Quảng Trị, thằng mô man khai lí lịch là
lòi ra liền”.
Miên man theo dòng suy nghĩ tôi nhớ hồi học Đệ Tam C (1967 - 1968), lớp
tôi vẫn gọi Hoàng Thị Xuân Ba là “tiểu
thư” vì con nhà dòng dõi, là “như
cánh vạc bay” vì dáng dấp thanh mảnh và hát ca khúc Trịnh Công Sơn rất hay.
Có lần đến nhà thăm chơi, Xuân Ba kể rằng vẫn còn nhớ một tối đi chùa Tỉnh hội,
khi ra khỏi Chánh điện, tìm hoài không thấy đôi dép, thật là lỡ khóc, lỡ cười,
làm sao về nhà đây? May thay Hồ Sĩ Bình (NH 64 - 71) cũng đang đi chùa, thấy
nguồn cơn bối rối của một nữ sinh NH, quá động lòng bèn cởi đôi giày đang mang
nhường cho, thật mừng không kể xiết. Hôm sau Xuân Ba tìm lớp trao cho Bình một
bịch lớn gói giấy rất cẩn thận, đàng hoàng. Bình và cả lớp hồi hộp không biết
quà tặng chi đây, mở ra từ từ, từ từ với rất nhiều dự đoán: Khế ngọt chắc? ổi à? hay bánh? ô mai?.
Đến khi các lớp giấy đã hết, Bình chợt thấy... đôi giày của mình hôm qua hiện
ra!
Còn Hà Bích Hường (NH 66 - 72) gặp gỡ là kể chuyện vui, chẳng hạn: khi
nghe thổi sáo, một công dân Quảng Trị hỏi một đồng hương rằng:
- Này, cấy chi
mà hay rứa hè?
- Tre đục lộ
- Ui chà, một
cơn mà hay rứa, cả bụi thì hay hung nữa hi.
Còn hàng trăm câu chuyện khác nữa đã làm cho những lần “dân” Nguyễn
Hoàng gặp nhau là không cạn nguồn đề tài nên rượu cứ tràn ly, trà tiếp nối tách,
càphê liên tục nhiều cử...
Có lần Hồ Sĩ Bình kể với chúng tôi rằng: mẹ của Bình thì không biết chữ
nhưng tình thương con và cách chăm sóc chồng thì không thể chê vào đâu được.
Nghe chồng báo tin con mình thi đỗ Đại học Sư phạm, đang ở trong bếp, cầm đôi
đũa trên tay bà chạy ra hỏi: “Bựa mô hắn
về dạy trường Nguyễn Hoàng à”. Nghe Bình kể thế tôi cũng nghĩ đến mẹ tôi.
Ngày ba tôi hân hoan nói tôi đậu Đại học Sư phạm, mẹ tôi chẳng biết Đại học Sư
phạm là gì, ba tôi cắt nghĩa một cách dễ hiểu: “Mai mốt con mình cũng dạy Nguyễn Hoàng như dượng Tâm” (thầy Lê Mậu
Tâm, gia đình tôi kêu bằng dượng), thế là mẹ tôi hiểu và cười sung sướng: “Dạy Nguyễn Hoàng luôn à ? Ôi chà, răng mà
dạy được Nguyễn Hoàng ?”.
Trong những câu nói mộc mạc của các bà mẹ Quảng Trị gói ghém bao nguồn
cơn. Thì ra dù không biết chữ, nhưng những người mẹ ấy vẫn ngưỡng mộ, vẫn biết
giá trị cao quý của trường Nguyễn Hoàng. Đằng sau vẻ lam lũ tất bật vì chồng
con, trong tâm hồn mẹ vẫn đằm sâu, ấp ủ một kì vọng, một ước mơ vô cùng tha
thiết. Đôi khi chúng ta tự hỏi: “Vì sao ta
thương trường quá vậy?”. Có lẽ vì yêu Quảng Trị nên chúng ta yêu trường, vì
mến bạn, quý thầy nên ta càng tha thiết với trường hơn. Đến tuổi này, tình cảm
càng da diết có lẽ ta yêu trường thay cho bạn bè đã khuất không còn về hội ngộ
nên tình yêu ấy chất ngất đau đáu như lời thơ Bùi Minh Quốc nói với vợ hiền
Dương Thị Xuân Quý vừa hi sinh: “Anh sẽ
sống những ngày em chưa kịp sống. Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu”. Và
ngôi trường Nguyễn Hoàng không phải chỉ của chúng ta mà còn trong tim bao người
mẹ, người cha nữa.
Khi nhớ lại những câu chuyện của đời học sinh, trong tôi chợt nghĩ: sao
chúng ta không hình thành tập Truyện ngắn
Nguyễn Hoàng nhỉ? Để lưu giữ và truyền cho nhau cùng chia sẻ. Nếu đồng
thanh tương ứng, chắc chúng ta sẽ lần lượt xuất bản nhiều tập Truyện ngắn Nguyễn Hoàng đầy thú vị nay
mai. Mỗi tập sẽ in mỏng, có thể gối đầu giường hay vừa đọc vừa đong đưa theo
nhịp võng để sống hoài trong ta giai đoạn đáng ghi nhớ nhất của đời người.
Có người sau khi học Nguyễn Hoàng xong là giã từ sách vở, bàn tay không
còn cầm bút mà cầm cày trên ruộng đồng, cầm dao kéo, thuốc men trong bệnh viên,
cầm súng trên chiến trường… Riêng tôi may mắn đi vào Sư phạm nên vẫn còn duyên
nợ với bút nghiên. Tôi không được về dạy Nguyễn Hoàng như lòng mẹ cha mong ước
vì khi ra trường cả gia đình đã vào Đà Nẵng. Những ngày trước khi nhận nhiệm
sở, tôi vẽ ra trong suy nghĩ nhiều hình ảnh như lời thơ của Võ Quê:
Mai mốt chi em lên đường dạy học
Nơi bản thôn xa phố
phường gần
(...)
Học trò em hiền ngoan
hồng mộng ước
Em vào đời em sáng tạo
bình minh
Mỗi khi lên lớp giáng bài sao tôi cứ nhớ và mường tượng các giờ học
Việt văn ngày xưa với cô Nguyễn thị Thu, thầy Trần Mạnh Liệu, thầy Lý Văn
Nghiên, Thầy Phạm Sửu, thầy Nguyễn Văn Diên. Các thầy cô đã thổi hồn văn chương
vào tim tôi tự bao giờ để bây giờ tôi cũng đang đi trên con đường ấy. Đứng trên
bục giảng tôi nhìn những mái đầu xanh, những đôi mắt đen trong mà nhớ về ngày
xưa của mình, nhưng tôi vẫn thích ngồi ở bàn học sinh hơn nên mỗi lần học trò
làm bài 2 tiết, thay vì ngồi bàn giáo viên để quán xuyến lớp, tôi xuống ngồi
bàn cuối để sống với cảm giác làm nữ sinh Nguyễn Hoàng. Cũng trong vị trí học
trò ấy mà có lần đi dự giờ, ngồi ở cuối lớp tôi đã đọc được bài thơ dưới hộc
bàn, trở thành chi tiết vui vui:
Không muốn làm em khổ.
Không muốn làm em khóc.
Chỉ xin nói một điều:
Anh yêu em tha thiết.
Rồi bên cạnh đó có nét chữ khác:
Đứa nào mà sến thế.
Bà chị đập chết chừ.
Còn nhỏ không lo học.
Mãi nghĩ chuyện vẩn vơ.
Chắc là lớp sáng, lớp chiều đang đối thoại với nhau. Ngôn ngữ đáo để cứ
như là Hồ Xuân Hương!
Từ tháng ngày đi dạy, tôi có vô vàn những trang đời ăm ắp niềm vui, nỗi
buồn. Nỗi nhớ mênh mang dạt dào như những đợt thủy triều lên xuống từng ngày
trong tôi. Chỉ ghi lại đây một vài chi tiết, một vài câu thơ: khi dạy thêm, học
trò nộp học phí, có những tờ tiền rất phẳng phiu, mệnh giá lớn nhưng cũng có
khi nhận tiền lẻ còn dính vảy cá, dính lá rau răm hay cọng bún nhỏ đã khô… tôi
cầm mà thương những phụ huynh chắt chiu đồng tiền thấm mồ hôi lao động để nhủ
lòng mình phải hết sức tận tâm, tận tâm như thầy cô Nguyễn Hoàng của tôi ngày
nào. Học trò trường Đông Giang-Hoàng Hoa Thám nơi tôi dạy sáng tác nhiều bài
rất dễ thương, tôi vẫn thuộc lòng các vần thơ trên báo tường:
Tôi
mến trường tôi, kính thầy cô
Tôi thương phấn
bảng, áo học trò
Tôi yêu tha thiết
từng trang sách
Yêu ánh bình minh
rọi sân cờ
(Bích Tuyên)
hay
là:
Sao ơi hãy
thức thâu đêm
Mà xem cô
giáo của em soạn bài
Lặng yên bên
vở bồi hồi
Vở bao nhiêu
chữ, bấy lời mến thương
(Ngọc Hà)
Đi học và đi dạy, sao tôi cứ mênh mang trong không gian trường lớp để
quên ý niệm thời gian, hôm nay mà cứ ngỡ hôm qua cho nên vương vấn hoài:
…
Chúng tôi có mái nhà lớp học
Bốn bức tường vôi xanh ngà
ngọc
Hai dãy bàn ngay
ngắn, xinh xinh
Và bảng đen, phấn
trắng, ân tình
Là tất cả bình
minh cuộc sống
Ai cũng có một mái nhà riêng biệt và ngôi trường là mái nhà chung, mái
nhà xây bằng nền móng kiến thức và yêu thương nên bền vững theo thời gian năm
tháng. Dưới bóng rợp mái nhà đó, thầy cô, bạn bè, sách vở, kỉ niệm... tất cả
lung linh như ống kính vạn hoa, chỉ cần lắc rung nhẹ một nỗi niềm là lập tức
tháng ngày ôm sách vở, bình minh cuộc sống hiện về với những sắc màu còn tươi
roi rói như vừa mới hôm qua dù tuổi trường và tuổi chúng ta, trong mạch đời
cuồn cuộn chảy, hôm nay đã vào độ sáu mươi.
Lê Thị Ba
Lê Thị Ba
Tháng
3/2012