Thơ
Bích Liên Nguyễn
- Châu Thạch
![]() |
Bích Liên |
VỀ LẠI HUẾ
Qua lăng miếu còn nghe hơi ai thở
Ngắm Hương giang chợt nhớ tóc ai bồng
Trong mỗi vườn chẳng còn lá mùa xưa
Trên đường cũ vắng bóng người quen biết
Đi lang thang suốt trưa không biết mệt
Cầu Trường Tiền dốc Bến Ngự chợ Đông Ba
Muốn hỏi thăm từng vườn cũ căn nhà
Họ bây giờ đang sống là ai đấy
Mimosa sân trường vàng tươi như trước
Lá vẫn xanh trên hàng đoác hàng me
Đồng Khánh trường xưa dù đã thay tên
Sao quên được thầy cô bè bạn cũ
Thừa Phủ bến đò những ngày đi học
Trôi về dĩ vãng như cổ tích xưa
Nhớ những ngày ai đón ai đưa
Tình vẫn cứ trinh nguyên trang giấy
trắng
Nghĩ ngày mai mình như chim sãi cánh
Góp thêm tháng ngày xa xôi cách trở
Ngẫm lại mình có điều chi lầm lỡ
Răng bây chừ lạc lõng chốn thân thương?
(Huế một lần về thăm)
Bích Liên Nguyễn
Tản Mạn của Châu Thạch:
Bích Liên Nguyễn không làm thơ, đây có lẽ là một trong vài bài thơ cảm tác
bất ngờ trong đời chị. Chị là chị họ của vợ tôi và phu nhân của người bạn cùng
học với tôi tại trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Anh Nguyễn Bá Trình chồng chị,
là một vị thầy tài hoa, tài hoa vì ngoài nhà mô phạm ra, anh còn là một văn sĩ,
thi sĩ, họa sĩ đã xuất bản nhiều sách,
vẽ nhiều tranh được mến mộ. Cặp vợ chồng nầy thì đồng môn Nguyễn Hoàng tại Sài
Gòn không mấy ai không biết vì là họ sinh hoạt thường xuyên với hội, phong cách
hiền hòa, tao nhã, vui vẽ và hào hoa. Những bữa cơm của Liên Trình chiêu đãi
đồng môn chỉ đơn sơ ba hoặc bốn mốn thôi,
nhưng ăn vào thì nhớ, mà nhớ thì muốn quay lại thưởng thức tài nấu nướng tinh
hoa mang đậm “bản sắc quê nhà” của chị. Bởi
thế nhà Liên Trình luôn có khách. Học trò cũ, bạn đồng môn, văn thi hữu, ai đến
nhà Liên Trình, khi ra về cũng thấy lòng vui và tâm hồn thư thái.
Đọc
“Về Lại Huế”, tôi vui thấy bà chị mình cũng biết làm thơ, vì vậy ai có nói “mèo
khen mèo dài đuôi” thì chắc chị ấy và tôi cũng vui lòng mà công nhận. Thế nhưng
thử để ý xem, cái đuôi nầy cũng lung linh đẹp và dễ thương lắm chứ!
Chỉ
cần đọc hai câu thơ vào đề “Qua lăng miếu còn nghe hơi ai thở/Ngắm Hương Giang
chợt nhớ tóc ai bồng” thì hình ảnh Huế từ trăm năm xưa cho đến ngày nay chợt
như có hồn, hồn ấy hiện hữu ngay trong lòng ta. Lăng là công trình xây dựng để
cất giữ thi hài của vua chúa tại Huế. Miếu là chốn để thờ cúng trong tín ngưỡng
dân gian ở đất thân kinh. Cái tứ thơ “còn nghe hơi ai thở” của Bích Liên Nguyễn
khi đi ngang qua chốn lăng miếu gây cho ta một chút rờn rợn, một chút u hoài
nhưng cũng làm cho ta cảm nhận được cái hồn Huế của một thời huy hoàng xa xưa
còn sống đó. Cái tứ thơ “tóc ai bồng” như dòng Hương Giang phả vào lòng sự êm
ái của những kỷ niệm gần đây còn rất rõ ở trong hồn. Chỉ với hai câu thơ, Bích
Liên Nguyễn đã gợi lên trong lòng ta hình ảnh cố đô rêu mốc và ký ức thân
thương của tháng ngày trên đất Huế, cho ta quay lại trong dòng sông ký ức của
những ai từng ở Huế hay chỉ biết Huế qua sách vở đều có cảm nhận thân quen với
chốn nầy.
Khi
viết bài thơ “Trên Đường Về” một thị thành bị rời bỏ của giống dân Hời, nhà thơ
chế lan Viên đã viết: “Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi/ Những đền xưa đổ nát
dưới thời gian”. Tiếng thơ nghe thật là bi thảm, linh hồn thị thành vẫn còn
sống nên mới phải “gầy mòn vì mong đợi”. Cũng thể ấy. Bích Liên Nguyễn nói về
một cố đô mà linh hồn năm xưa còn đó, cũng gầy mòn vì mong đợi, khác chăng là
tiếng thơ của chị không khóc than sầu muộn như nhà thơ họ Chế mà thôi:
Qua lăng miếu còn nghe hơi ai thở
Ngắm Hương giang chợt nhớ tóc ai bồng
Trong mỗi vườn chẳng còn lá mùa xưa
Trên đường cũ vắng bóng người quen biết
Nhà thơ trở về Huế, không những chỉ đối mặt với “lối xưa xe ngựa/ nền cũ lâu đài”
tịch liêu mà còn đối mặt với con người xa lạ, chẳng khác chi ngày xưa Từ Thức
từ non tiên quay về chốn cũ, thấy cây đa mình trồng còn đó, nhưng người thân
quen thì chẳng có một ai:
Đi lang thang suốt trưa không biết mệt
Cầu Trường Tiền dốc Bến Ngự chợ Đông Ba
Muốn hỏi thăm từng vườn cũ căn nhà
Họ bây giờ đang sống là ai đấy
Cô nữ sinh Đồng Khánh năm xưa đi giữa
Huế ban ngày, nhưng có lẽ tâm trạng cô lúc đó chẳng khác chi là “Đi lang thang
khuya lắt khuya lơ/ Đèn nhà ai tắt sớm”. Mọi thứ đều xa lạ với cô nên cô quay
về nơi mà cô tưởng “còn một chút gì để nhớ để thương”. Thế nhưng:
Mimosa sân trường vàng tươi như trước
Lá vẫn xanh trên hàng đoác hàng me
Đồng Khánh trường xưa dù đã thay tên
Sao quên được thầy cô bè bạn cũ
Thừa Phủ bến đò những ngày đi học
Trôi về dĩ vãng như cổ tích xưa
Nhớ những ngày ai đón ai đưa
Tình vẫn cứ trinh nguyên trang giấy
trắng
Hoa mimosa là
loài hoa đẹp, thân gỗ lớn, với những chùm hoa vàng rực rỡ kiêu sa đầy quyến rũ,
nổi bật trên nền lá xanh lấp lánh ánh bạc. Hoa mimosa tượng trưng cho tình yêu
thầm kín và sự cảm thông sâu sắc. Hoa nở liên tục kéo dài từ cuối tháng 10 tới
hết mùa Xuân. Đúng như ý Bích Liên Nguyễn, cảnh cũ vẫn còn, hoa vẫn đẹp nhưng
trường đã thay tên. Niềm đau nầy có lẽ ai là học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng
Trị sẽ đồng cảm nhiều với thơ vì đã mang nó trong tim mình suốt trên 40 năm nay
.
Tác giả
đã để tứ thơ hoa Mimosa vàng tươi và lá xanh trên hàng đoác hàng me như tưởng
niệm lại hình ảnh cúa những năm tháng học trò tốt đẹp của đời mình năm xưa. Thế
rồi “Đồng khánh trường xưa dầu đã thay tên” khiến cho sự hụt hẩng như rơi vào
vực sâu thẳm trong lòng người. Nhà thơ vớt vát bằng câu “Sao quên được thầy cô
bè bạn cũ”, thế nhưng nó là một câu thơ thay lời oán trách, như nhắn nhủ những
ai đã thay tên đổi họ những mái trường, những con đường, rằng họ có thể thay cả
thế gian nhưng không thay được tấm lòng bao giờ.
Tác giả
nhắc lại bến đò Thừa Phủ, nơi các nữ sinh được người yêu mình đón đưa mỗi ngày
qua lại trên sông Hương. Thứ tình đó nên thơ đầu đời và trong trắng nên sẽ tồn tại mãi mãi như một trang giấy học
trò chưa viết chữ lên. Toàn bộ hai khổ thơ êm ái như cung đàn đang dạo trong
lòng cô liêu của Huế bây giờ, trên từng bước chân đi của người quay về, để
tưởng nhớ một Huế xa xưa.
Suốt
một ngày đi lang thang nhà thơ không khóc, chị khóc khi chiều đến với những dằn
vặt rong lòng về những lỗi lầm không phải của mình. Đó cũng là ý thơ rất lạ và
đẹp trong tâm hồn một cô nữ sinh Đồng Khánh đã từng hưởng một nền giao dục rất
nhân văn:
Nghĩ ngày mai mình như chim sãi cánh
Góp thêm tháng ngày xa xôi cách trở
Ngẫm lại mình có điều chi lầm lỡ
Răng bây chừ lạc lõng chốn thân thương?
Tác giả không trách đời, không trách
người, ngẫm lại mình, cho mình đã từng làm gì lẫm lỡ, để phải ngày nay lạc lõng
giữa lòng Huế thân thương.Tác giả mang hoàn toàn tấm lòng của người phụ nữ Huế,
một tấm lòng hy sinh, vị tha, yêu thương, nhận chịu hết cho mình, tha thứ và
không oán trách bao giờ. Tấm lòng đó thật đáng kính phục nhưng không khuyến
khích ở thời đại nầy vì nó đem hạnh phúc cho tha nhân nhưng nó nhận lảnh biết
bao thiệt thòi về mình.
Huế
có hàng ngàn bài thơ về Huế. “Về Lại Huế” của Bích Liên Nguyễn cũng giống như
hạt muối giữa lòng biển khơi. Thế nhưng nếu ta vớt nó lên và ném thử nó, thì vị
cúa biển cũng thấm vào đầu lưỡi ta, và bằng trí tưởng tượng ta thấy được cả ngàn khơi với bao điều thú vị
trong thơ ./.
Châu Thạch