Trong Bài Thơ Của Dư Mỹ
- Châu Thạch
BẠC
TÓC VUI CÙNG CHINH CHIẾN XƯA
(Cảm hứng từ bức ảnh hai ông bạn già bạc
tóc.)
Tặng
Thế Lộc, Châu Thạch)
Râu
tóc đã bạc dần theo nỗi nhớ
Mà hồn còn xanh mãi với quê hương
Mượn chén rượu sưởi ấm niềm tâm sự
Kể lại nhau nghe chuyện cũ sa trường.
Mà hồn còn xanh mãi với quê hương
Mượn chén rượu sưởi ấm niềm tâm sự
Kể lại nhau nghe chuyện cũ sa trường.
Mơ
ngựa hí vang rền " chiều quan ải "*
Hoà điệu buồn " lời dế "* gáy đêm sương
Bao kỷ niệm của một thời áo trận
Giữ trong hồn như một thú đau thương.
Hoà điệu buồn " lời dế "* gáy đêm sương
Bao kỷ niệm của một thời áo trận
Giữ trong hồn như một thú đau thương.
Vui
một thuở dọc ngang đời trai trẻ
Quên thân mình giữa khói lửa chiến chinh
Súng gối đầu đêm trăng vui chuyện gẩu
Sưởi ấm ân tình huynh đệ chi binh.
Quên thân mình giữa khói lửa chiến chinh
Súng gối đầu đêm trăng vui chuyện gẩu
Sưởi ấm ân tình huynh đệ chi binh.
Buổi
hoàng hôn tìm chút tình tri kỷ
Rượu khề khà dăm chén lãng quên đời
Ta gửi tiếng thơ ta về cố lý
Góp tiếng buồn chim vịt giữa chiều rơi.
DƯ MỸ
Rượu khề khà dăm chén lãng quên đời
Ta gửi tiếng thơ ta về cố lý
Góp tiếng buồn chim vịt giữa chiều rơi.
DƯ MỸ
*Chiều
quan ải . Lời dế : Thơ của Thế Lộc và Châu Thạch .
Cảm
nhận của Châu Thạch:
Tôi
đọc lui đọc tới bài thơ nầy 10 lần, 20 lần và có lẽ đến 100 lần trong ba ngày
tết Kỷ Hợi (2019). Tôi biết đây chỉ là bài thơ thuộc loại “Mỳ ăn liên” mà tác
giả cảm tác ngay khi nhìn bức ảnh tôi và Thế Lộc chụp chung với nhau. Thế nhưng
tôi cũng biết đây là những câu thơ như tơ của con tằm đặc biệt, không chỉ ăn
dâu mà nhả ra thành tơ được, nó còn ăn sương trên lối mòn biên giới, uống phong
ba trong bão táp chiến trường và nhận chịu cái “thú đau thương” trong tâm hồn
gần trọn cuộc đời làm tằm nhả tơ của mình. Người chiến binh miền Nam Việt Nam
năm xưa không cầm súng ra sa trường với lòng hận thù đốt cháy cả Trường Sơn.
Những chiến binh ấy ra sa trường với nỗi đau trong tim vì cuộc chiến anh em
tương tàn. Họ mang tâm hồn thơ đi theo suốt cuộc chiến nên thi ca của họ phần
nhiều nhìn hỏa châu rơi, nghe tiếng ru của bom đạn không phải để xông lên lấy
máu quân thù mà để nhớ về em, về mẹ và gọi người bên kia chiến tuyến dừng cuộc
say thù hận. Họ mang niềm đau ngay trong khi còn chiến đấu và mang tiếp niềm
đau khi buông súng làm người thua cuộc.Họ không biến niềm đau thành sát khí, mà
họ biến niềm đau thành thi ca chan chứa nỗi niềm, cho nên gọi niềm đau ấy là
“thú đau thương”. Thú đau thương đó hình như có ở tất cả trong tâm hồn người
lính miền Nam thưở ấy, từ anh binh nhì đến vị tướng chỉ huy. Những tâm hồn thơ đó cho đến bây giờ vẫn y
nguyên như thế:
Râu tóc đã bạc dần theo nỗi nhớ
Mà hồn còn xanh mãi với quê hương
Mà hồn còn xanh mãi với quê hương
Màu
xanh là màu của nước, da trời và cây lá. Hồn còn xanh là hồn còn tươi tốt. Hai
câu thơ mở bài đã đưa râu tóc màu bạc và hồn màu xanh tá khách vào nhau, phát
họa hình ảnh vô thường và vĩnh cửu đối
kháng nhau trên và trong người chiến binh năm cũ. “Tóc bạc dần theo nỗi nhớ” là
hình ảnh vô thường. “Hồn còn xanh mãi với quê hương” là sự vĩnh cửu tồn tại
trong tinh thần người chiến binh ấy. Đọc hai câu thơ. tự nhiên trong lòng ta
cảm thấy xót thương và cảm phục. Xót thương vì nhìn thấy “Râu tóc bạc dần theo
nỗi nhớ. Cảm phục vì nỗi nhớ ấy là tâm hồn trung tín “xanh mãi vối quê hương”.
Tiếp
theo, nhà thơ giới thiệu một bức tranh sống động hay một hoạt cảnh hiện thực
đầm ấm giữa cuộc đời:
Mượn chén rượu sưởi ấm niềm tâm sự
Kể lại nhau nghe chuyện cũ sa trường.
Kể lại nhau nghe chuyện cũ sa trường.
Những
người lính già ngồi bên chén rượu kể lại chuyện chiến trường xưa luôn là hình
ảnh đẹp và hào hứng cho người nghe nó.
Toàn
bộ khổ thơ tưởng như là phát ngôn bình thường, miêu tả một hình ảnh bình
thường, nhưng sự thật nó lôi kéo người đọc ngay, vì nó hòa quyện sắc màu hiện
tại và quá khứ, hứa hẹn những vần thơ tiếp theo sẽ bộc lộ sự kín nhiệm ở tận
sâu trong con tim những người chiến sĩ về già.
Và
đúng như vậy. Ta hãy đọc khổ thơ thứ hai:
Mơ
ngựa hí vang rền " chiều quan ải "*
Hoà điệu buồn " lời dế "* gáy đêm sương
Bao kỷ niệm của một thời áo trận
Giữ trong hồn như một thú đau thương.
Hoà điệu buồn " lời dế "* gáy đêm sương
Bao kỷ niệm của một thời áo trận
Giữ trong hồn như một thú đau thương.
Ở
khổ thơ nầy ta thấy có tiếng ngựa hý kiêu hùng, kỷ niệm cúa một thời áo trận
hòa điệu trong tiếng dế rả rich trong đêm sương. Tất cả buồn vui trộn lẩn trong
nhau, ngọt đắng thấm nhập trong nhau, tâm hồn thi nhân lắng xuống để nghe tiếng vọng lại từ bao năm về trước. Từ
đó thi nhân vui trong nỗi buồn và buồn trong niềm vui. Tâm trạng khó hiểu ấy được nhà thơ mô tả bằng cụm từ “thú đau
thương”.
Đọc
cụm từ “thú đau thương” ta nhớ nhà thơ Lưu Trọng Lư có một bài thơ “Thú Đau
Thương” với những câu thơ cuối như sau:
Xin
để gối nằm im chổ cũ
Hãy
lịm người trong thú đau thương
Giờ
đây ta đốt nén hương
Trên
tay ta buộc dải tang cho tình
Trong
bài thơ nầy Lưu Trong Lư đã buông thả hết tất cả để đắm chìm trong thú đau
thương, để thưởng thức mùi vị, cảm giác của đau thương. Như vậy nhà thơ say đắm
với nỗi đau thương đó như say đắm người đẹp, say đắm tình yêu. Và cũng có thể
nói rằng đó là một bệnh lý của thi nhân.
Khi
nhà thơ Dư Mỹ dùng cụm từ “thú đau thương”để viết cho những người chiến binh
năm xưa, thì anh đã hữu ý tán dương tâm hồn của họ, biến họ hết thảy thành
những thi nhân biết yêu cả những điều đau khổ trong cuộc đời, nghĩa là anh cho
tâm hồn họ “đi giữa nguồn trong trẻo vô biên, vây phủ bởi trăm giây quyến
luyến” như nhà thơ Hàn Mạc Tử đã từng viết.
Ở
khổ thơ thứ ba, chỉ là nhắc lại sự sinh hoạt của người chiến binh trong quá
khứ:
Vui
một thuở dọc ngang đời trai trẻ
Quên thân mình giữa khói lửa chiến chinh
Súng gối đầu đêm trăng vui chuyện gẩu
Sưởi ấm ân tình huynh đệ chi binh.
Quên thân mình giữa khói lửa chiến chinh
Súng gối đầu đêm trăng vui chuyện gẩu
Sưởi ấm ân tình huynh đệ chi binh.
Tình
chiến hữu năm xưa được nhà thơ nhấn mạnh trong khổ thơ nầy, chỉ phổ quát một
vài điểm chủ yếu nhưng khơi dậy cho người đọc liên tưởng đến những gì nhiều hơn
nữa, nhất là những lính già thường vọng về dĩ vảng trên dòng sông ký ức của đời
mình.
Bước
qua khổ thơ thứ tư, là khổ thơ cuối của bài thơ, Dư Mỹ đã xuống tông cho tiếng
thơ trầm lắng, âm vang trong buổi hoàng hôn, khề khà trong cơn say quên đời và
giá lạnh trong cơn gió buồn của tiếng thơ bên kia đại dương gởi về cố lý:
Buổi
hoàng hôn tìm chút tình tri kỷ
Rượu khề khà dăm chén lãng quên đời
Ta gửi tiếng thơ ta về cố lý
Góp tiếng buồn chim vịt giữa chiều rơi.
Rượu khề khà dăm chén lãng quên đời
Ta gửi tiếng thơ ta về cố lý
Góp tiếng buồn chim vịt giữa chiều rơi.
Bốn
câu thơ trác tuyệt! Trác tuyệt vì nó mang đậm đà tình tri kỷ, chén rượu hảo hán
muốn quên đời, cơn say tỉnh táo, nổi buồn loan rộng đến phương trời và tiếng kêu bi ai của con chim vịt rớt trong
tuổi hoàng hôn của lớp lớp chiến binh râu tóc bạc màu.
Trong
đêm xuân, tôi đọc đi đọc lại bài thơ của Dư Mỹ, tôi không khóc đâu, vì tôi đã
không khóc từ ngày buông súng làm tù binh. Thế nhưng bài thơ đã dìu tôi vào nỗi
buồn thế sự, cho nỗi buồn tôi bay lên, bay lên và bay lên mãi cho đến khi nghe
tiếng kêu của con chim vịt trong
thơ. Câu thơ “Góp tiếng buồn chim vịt
giữa chiều rơi” làm tôi thấy bầu trời quê hương mênh mang và dòng sông đời tôi
ảo não chảy. Dòng sông đời tôi rồi sẽ tan trong biển lớn, ở đó sẽ hòa chung với
biết bao dòng sông khác, rồi sẽ bốc hơi, rồi sẽ biến thành mây, rồi sẽ được về
tắm mát cho quê hương mình một ngày nào đó biết đâu./.
Châu Thạch