Monday, December 3, 2018

Nỗi Niềm Vong Quốc 
                         - thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
(Họa bài Lưu Vong Hành của Nguyễn Kinh Bắc)









Đại dương cách biệt cả ngàn trùng
Ngồi tận trời Tây nhớ cõi Đông
Hồn vọng miên man về cố quốc
Niềm đau khôn thể nói cho cùng!

Nhớ xưa kinh sử chong đèn sách
Nào ngỡ phận mình vướng kiếm cung
Vào chốn giang hồ hành hiệp khách
Tấm thân ngang dọc trải bao vùng.

Gian nguy trận mạc chưa hề nản
Canh cánh bên lòng lý tưởng chung
Bão táp phong ba ghìm vững lái
Mặc thây lửa đạn cứ sôi bùng

Trải bao chiến tích thời xuôi ngược
Vẫn được an bình dẫu cát hung
Chất ngất ngút trời mùa lửa đỏ
Góp trang hiển hách sử kiêu hùng

*
Cuộc cờ trở thế đành thu kiếm
Ngựa quỵ rừng khuya lạc bặt rung
Trăng gọi cồn hoang sương buốt lạnh
Tan đàn sẩy nghé bước đường cùng!

Xưa cùng đồng đội từng lâm trận
Lắm kẻ nương thời đợi rụng sung
Những kẻ ngồi yên chờ gió lộng
Nghe không tiếng trống  giục thì thùng!

Thân đà cam phận tù xa xứ
Ngày tháng giản co khó đếm đong
Tủi nhục đói no hồn nặng trĩu
Xa xăm biền biệt bặt tin hồng!

Bỗng dưng hóa kiếp loài rừng rú
Chiếu đất màn trời ... tất cả không!
Phá rẫy đẵn cây xây lán trại
Gian nan tiếp tiếp chất cao chồng

Lá rừng nước suối cùng khoai sắn
Ổ rạ liếp tre rán ghé lưng
Quốc giục u hoài rền vách núi
Trăng xuyên sương lạnh xuống khe mùng

Cùng chung cảnh ngộ thêm son sắt
Tổ Quốc ghi lòng tận nghĩa trung
Giữa chốn lao lung không chuyển dịch
Lời thề danh dự dễ chi chùng.

Trăm ngàn nỗi khổ chưa hề hấn
Vững chí kiên trì giữ đỉnh chung
Đối diện triền miên muôn sự ác
Lằn ranh cách biệt khó tương đồng

*

Thuyền từ đổ bến trời mong ước
Đốt nén nhang trầm khấn bái vong
Đồng đội bỏ mình thời khổ nạn
Điếu văn tạ biệt xót xa lòng!!!

Chán thay lắm kẻ cùng chung phận
Sống ở quê người lại láo lung
Cái bã hư danh gây đối nghịch
Trề môi uốn lưỡi hót mông lung ...!*

Bày trò kết nhóm gây bè cánh
Bẩn mắt nhân quần ghé luận công
Áo mão cân đai màn kệch cỡm
Nhởn nhơ như mặt bọn lên đồng.

Văn chương bát nháo tung hô hoảng
Múa bút học hằn kiểu nổi xung
Trăng cuội vẽ tô màu sắc ảo
Hung hăng như dã thú săn lùng.

Giữ dùm trong sáng nguồn ngôn ngữ
Chớ hất ngang chằng ngược ngọn phong
Vễnh mặt khoa trương cho thỏa thích
Chưa phai nỗi nhục đã chao lòng!

Vẽ tô chính kiến bày ra lẽ
Đã hết thời rồi ngọn bút lông!
Hãy quẳng đi ngay trò dị hợm
Vị chua son phấn tưởng hương nồng

Vọng vang tiếng thét người cùng khổ
Đang chịu đọa đày bởi xích gông
Khúc "Hậu Đình Hoa" đừng hát nữa
May ra sớm có cuộc tương phùng. *

Còn đau đớn lắm nhìn thân phận
Mãi đứng làm gì thẹn núi sông!
Ngựa quỵ gươm cùn trăng nhạt bóng
Buồm căng chẳng kịp nước xuôi dòng

Lơ phơ xỏa tóc chiều mây bạc
Chén rượu hồ trường chửa cạn xong
Vó ngựa chồn chân xa Ải Bắc
Nhìn ra hải đảo biệt muôn trùng!

Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Dec/01/2018

* Thay 2 vận "ngùng", vì ngùng đi với âm bằng là tử vận.
Trong lúc toàn bài tôi muốn họa đối vận với nguyên bản.

Xướng
LƯU VONG HÀNH

Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
Ta còn phiêu bạt – đã mười đông
 Mười đông – vật vã vì cơm áo
 Lòng vẫn chưa nguôi, nhớ chẳng cùng !

 Ta nhớ một thời chinh chiến cũ
 Học làm tráng sĩ luyện đao cung
 Bút nghiên xếp lại, yêu đời lính
 Theo gót người xưa sống vẫy vùng

 Quân đội trưởng thành trong khói lửa
 Dựng cờ đại nghĩa, diệt thù chung
 Tình dân đã quyện theo tình nước
 Thề quyết xông pha, vượt bão bùng

 Bao địa danh ngời trang chiến sử
 Đã làm khiếp vía giặc tàn hung
 Kontum, Quảng Trị, ...cùng An Lộc
 Phất phới cờ bay rợp khí hùng

 Rồi đến một ngày kia, súng gãy
 Ôi, trời nghiêng ngửa, đất đang rung
 Tướng quân tuẫn tiết ngoài biên ải
 Sĩ tốt điêu linh giữa khốn cùng

 Một lũ bất tài lo tháo chạy
 Những vì sao bạc rụng như sung
 Bao năm chễm chệ ngồi vơ vét
 Bỏ nước ra đi chẳng thẹn thùng

 Ta cũng như trăm nghìn chiến hữu
 Nổi trôi cùng vận nước long đong
 Sa cơ mắc bẫy vòng lao cải
 Rừng thẳm rào ngăn vó ngựa hồng

 Ôi những ngựa hồng nay chiến bại
 Cơ trời chuyển hóa, có thành không!
 Đòn thù giáng xuống đâu thương tiếc
 Oán hận triền miên mãi chất chồng

 Lao động khổ sai, thêm đói rét
 Mỗi ngày hai bữa bát ngô lưng
 Thân phơi gió lộng đồi heo hút
 Xác bỏ đìu hiu giữa mịt mùng

 Nhớ lại những ngày đi chiến đấu
 Lòng hằng giữ vững chữ kiên trung
 Dù cho đã ở trong tay giặc
 Đầu ngẩng lên cao, gối chẳng chùng

 Đất nước tuy còn, như đã mất
 Người người mang một nỗi đau chung
 Hỡi ơi, hăm tám năm rồi nhỉ ?
Mà vẫn không chung một chữ “đồng”

 Tự buổi lên đường, xa tổ quốc
 Làm người tị nạn, sống lưu vong
 Những ai nếu vẫn còn tâm huyết
 Thấy cảnh nhiều khi cũng nản lòng

 Chiến hữu một thời, nay cấu xé
 Bạn tù quên hết thuở lao lung
Cai thầu chống Cộng nhân danh hão
 Chụp mũ cho nhau chẳng ngại ngùng

 Một lũ túi cơm, phường giá áo
 Như bầy ngan ngỗng khoác lông công
 Học làm con rối lăng xăng múa
 Đã nát càng thêm nát cộng đồng

 Báo bổ dăm ba tờ lá cải
 Tập tành chữ nghĩa viết bung xung
 Bôi tro trát trấu người thiên hạ
 Vẫn sống dằng dai mới lạ lùng

Văn sĩ nửa mùa khoe múa bút
 Phơi bày dâm dật, cũng văn phong !
 Xênh xang áo gấm về quê mẹ
 Đú đởn ăn chơi cốt thỏa lòng

 Chính khứa trở cờ khoe ái quốc
 Ngồi chờ đón gió giữa sa lông
 Nhìn quanh cũng một phường xôi thịt
 Miệng lưỡi còn đang bốc rượu nồng

 Đâu xót dân lành đang thống khổ
 Đêm ngày rên xiết dưới xiềng gông
 Những cô ca sĩ về ăn Tết
 Hát “Hậu Đình Hoa” chẳng ngượng ngùng

 Ôi, biết bao điều, sao nói hết
 Nói càng thẹn mặt với non sông
 Gươm cùn, súng gãy từ bao thuở
 Bút mực này đây trải mấy giòng

 Mái tóc xanh xưa giờ đã bạc
 Thù nhà, nợ nước trả nào xong
 Chiều nay lặng lẽ nhìn mây phủ
 Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
       
Nguyễn Kính Bắc

*
 Họa
VỌNG QUỐC HÀNH

Quê cha, đất tổ cách muôn trùng !
Ta đành ly biệt đã bao đông
Bao đông tính sắp gần hoa giáp
Thương nhớ đầy vơi chẳng tận cùng

Ta nhớ thời còn trong đại học
Mơ đem bút mực thế gươm cung .
Gập phải cai thầu làng báo chí
Tố ta như một kẻ nằm vùng .

Cũng may không vướng vòng lao lý .
"Tam Quý" (*) cùng bàn góp sức chung
Tính đem nhiệt huyết lo cho nước
Hùng khí thanh niên đã nổ bùng :

Quý Biên sốt sắng lo tài chánh .
Quý Nghiêm thề diệt sạch quân hung
Tuyển "Chấn Bốn Cho" làm sát thủ,
Hắn khoe tài sức rất kiêu hùng !

Nhận lãnh tiền nong sau mất dấu ...
Tình hình chính trị chuyển rồi rung .
Quảng Đức cháy tiêu trong khói lửa
Cấm trại quân nhân cực tận cùng !

Sư Sãi, Cha Thầy đua thúc đẩy
Phật tử, con chiên đã nổi sung
Bùi Phát, Ấn Quang lo xách động
Loa vang, trống giục cứ thùng thùng .

Sinh viên học xá buồn thân phận
Tán chuyện tầm phào lấy đấu đong (?)
Ngao ngán nhìn đời không lối thoát ,
Hận mình không thể hoá Chim Hồng

Ôi những Chim Hồng nay biệt tích !
Chỉ là thần thoại có hay không ?
Cố công đèn sách chi cho uổng ?
Đèn sách ngổn ngang chất cả chồng !

Mong ngóng chờ ngày đi Thủ Đức
 Tập đeo băng đạn thắt ngang lưng .
Lên đường chiến đấu ngoài rừng rú
 Ngủ trên sỏi đá chẳng chăn mùng !

Trai sinh thời loạn thương bè bạn ...
Giữ gìn đất tổ một lòng trung .
Bến Hải, Cà Mau lo đuổi giặc
 Gian lao nguy hiểm trí không chùng !

Giận thay cái lũ ham danh lợi
Ích kỉ lăm le miếng đỉnh chung
 Cho ngáp phải ruồi vào Quốc Hội
 Đồng sàng dị mộng chẳng sao " đồng"

Nhạc Trinh công Sơn vang khắp nẻo
Khơi nguồn cho quốc phá gia vong .
Mươi bà mệnh phụ mê bài bạc
Thúc chồng tham nhũng mới vùa lòng ,

Cứ tưởng ăn trên ngồi trước mãi
Đến nay mất sạch có đau lung ?
Cả bọn nằm vùng giờ lộ mặt
Nhặng sị ta đây chẳng ngượng ngùng !

 Tướng tá ngu hèn không biết nhục
 Còn dùng hồi ký đặng khoe công
 Còn đòi lúc chết cờ vàng phủ :
Ta xưa chống địch vững hơn đồng !

Bao tên quân dịch thường tìm trốn
Nay khoe diệt giặc rất là xung
Lũ Chệt năm nao làm lính kiểng
giờ khoe bắt địch giỏi truy lùng

Làng lưới vài tên "thi sĩ dỏm"
Đòi gìn văn hoá giữ thuần phong !
Chỉ biết gang mồn ra chửi đổng
Tự tôn tự đại mới vui lòng ...

Tị Nạn trở cờ đòi cứu quốc ,
Cãi nhau khản cổ tới xù lông
Anh nào cũng nghĩ mình tay tổ
Mở miệng phà hơi thúi nực nồng

Chẳng xót dân đen đang khổ ải
Quanh năm ỳ ạch với cùm gông
Thương Nữ, MC mê nhí nhảnh
Rên "Hậu Đình Hoa" chẳng ngại ngùng !

Quặn thắt ruột gan đau thế sự
Hận chẳng giữ gìn được núi sông
Nên phải nổi trôi theo vận nước
Cùng bao rác rến chảy chung giòng

Cho lũ lòng tong theo rúc rỉa
Nhìn chúng loay hoay khóc khó xong !
Nhớ giải Lĩnh Nam hình chữ S,
Quê cha đất tổ cách muôn trùng

Lạc Thủy ĐỖ QUÝ BÁI

*
Họa
HẬN TÁT SAO VƠI

Cuối năm gió lạnh thổi trùng trùng
Sắp đến mùa Xuân hết tiết Đông
Hăm chín năm trời xa đất mẹ
Sài Gòn, Hà Nội nhớ vô cùng

Nhớ sao giọt nắng trên hè phố
Khói lửa tuy buồn chuyện kiếm cung
Nhớ tiếng rao hàng khuya vắng vẻ
Nhớ khi còn giặc đất khoanh vùng
Nhớ như là nhớ ta ngày ấy !
Đất nước chung và trách nhiệm chung
Nhớ những anh hùng vừa mới lớn
Câu thơ Chính Khí, tiệc vui bùng

Viết sao cho đủ tình trai trẻ
Đối kẻ thù đầy nét hiểm hung ?
Ai ngược Chu Prong, về Quảng Trị
Có xem trang sử thật hào hùng

Quân ta như thác lưng chừng đổ
Trời đất vì ta cũng chuyển rung
Cứ tưởng lại về vui đất mẹ
Đầu hàng ! - Ban lệnh, tủi khôn cùng !

Bao năm lạc lõng nơi quê tạm
Đâu thể nằm chờ rụng trái sung ?
Đâu thể mỗi người riêng mỗi ý ?
Chỉ biết chờ nghe trống điểm thùng

Lời nào cứu được cơn nguy khốn
Hận tát sao vơi, đấu khó đong
Ta chưa diệt được phường vong bản
Chưa sao xé nát được cờ hồng !

Ta nhìn bằng hữu mà đau đớn
Ta có mà như có vẫn không
Để mẹ tìm con, con gọi bố
Để lòng đau đớn vợ xa chồng

Cúi mình cam phận làm nô lệ
Đạp cổ, tha hồ chúng cỡi lưng
Mùng Một, mùng Hai, mùng mấy nữa
Còn bao nhiêu tháng bấy nhiêu mùng ..

Còn không những tấm lòng son sắt
Còn có còn không chữ Hiếu Trung ?
Sao lại đi về vui với giặc
Dây đàn không lẽ đã cam chùng ?

Chẳng đành hổ thẹn cùng tiên tổ
Ôi chữ giang sơn đất nước chung
Hăm chín năm trời như mới đó
Chưa sao viết được chữ tương đồng

Chia năm xẻ bảy càng đau xót
Chưa thấm ngày nào nhục bại vong
Nhìn đến cháu con thêm ngượng mặt
Hỏi ai có thấy xót xa lòng ?

Sao không nhìn lại gương người cũ
Cứ cứ đêm đêm nghĩ ngợi lung
Gặp nhau quên nhắc câu đoàn kết
Thấy như là ngại, thấy như ngùng

Ngại ngùng khi ngoảnh về quê mẹ
Chỉ thấy điêu tàn, thấy bất công
Chụp mũ nhau chơi cho bõ ghét
Chao ơi ! Toàn những chuyện bao đồng!

Cuối năm, nhớ lại trang hùng sử
Đọc lại câu thơ : Nộ khí xung
Cộng Sản dựng lên nhà cải tạo
Quốc gia tất cả bị săn lùng

Tự do thống nhất là vô nghĩa
Nhìn kỹ quân thù nhớ tác phong
Nhìn lại để đừng quên oán hận
Để con cháu Việt lại chung lòng

Để mùa Xuân tới trong bàn tiệc
Sống chết coi như một cọng lông
Ta rót mời nhau cùng cạn chén
Để xem men rượu ngất ngây nồng

Mùa Xuân nay đến ta vui chứ !
Phá nát nhà tù, bẻ xích gông
Khúc Hậu Đình Hoa không hát nữa
Chẳng ai còn ngại, chẳng ai ngùng

Chỉ còn máu đỏ, da vàng mẹ
Quang phục cùng lo chuyện núi sông
Tôi đọc bài thơ mà thổn thức
Nối điêu cùng thử viết đôi dòng

Tóc xanh, tóc bạc là vô nghĩa
Khi nợ, muôn nhà chửa trả xong
Xứ lạ đêm buồn nhớ cố hương
Cuối năm gió lạnh thổi trùng trùng

Sài Môn Chủ Nhân