- th ơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
(Họa bài Lưu Vong Hành của
Nguyễn Kinh Bắc)
Đại dương cách biệt cả
ngàn trùng
Ngồi tận trời Tây nhớ cõi
Đông
Hồn vọng miên man về cố
quốc
Niềm đau khôn thể nói cho
cùng!
Nhớ xưa kinh sử chong đèn
sách
Nào ngỡ phận mình vướng
kiếm cung
Vào chốn giang hồ hành hiệp
khách
Tấm thân ngang dọc trải
bao vùng.
Gian nguy trận mạc chưa hề
nản
Canh cánh bên lòng lý tưởng
chung
Bão táp phong ba ghìm vững
lái
Mặc thây lửa đạn cứ sôi
bùng
Trải bao chiến tích thời
xuôi ngược
Vẫn được an bình dẫu cát
hung
Chất ngất ngút trời mùa lửa
đỏ
Góp trang hiển hách sử
kiêu hùng
*
Cuộc cờ trở thế đành thu
kiếm
Ngựa quỵ rừng khuya lạc bặt
rung
Trăng gọi cồn hoang sương
buốt lạnh
Tan đàn sẩy nghé bước đường
cùng!
Xưa cùng đồng đội từng
lâm trận
Lắm kẻ nương thời đợi rụng
sung
Những kẻ ngồi yên chờ gió
lộng
Nghe không tiếng trống giục thì thùng!
Thân đà cam phận tù xa xứ
Ngày tháng giản co khó đếm
đong
Tủi nhục đói no hồn nặng
trĩu
Xa xăm biền biệt bặt tin
hồng!
Bỗng dưng hóa kiếp loài rừng
rú
Chiếu đất màn trời ... tất
cả không!
Phá rẫy đẵn cây xây lán
trại
Gian nan tiếp tiếp chất
cao chồng
Lá rừng nước suối cùng
khoai sắn
Ổ rạ liếp tre rán ghé
lưng
Quốc giục u hoài rền vách
núi
Trăng xuyên sương lạnh xuống
khe mùng
Cùng chung cảnh ngộ thêm
son sắt
Tổ Quốc ghi lòng tận
nghĩa trung
Giữa chốn lao lung không
chuyển dịch
Lời thề danh dự dễ chi
chùng.
Trăm ngàn nỗi khổ chưa hề
hấn
Vững chí kiên trì giữ đỉnh
chung
Đối diện triền miên muôn
sự ác
Lằn ranh cách biệt khó
tương đồng
*
Thuyền từ đổ bến trời
mong ước
Đốt nén nhang trầm khấn
bái vong
Đồng đội bỏ mình thời khổ
nạn
Điếu văn tạ biệt xót xa
lòng!!!
Chán thay lắm kẻ cùng
chung phận
Sống ở quê người lại láo
lung
Cái bã hư danh gây đối
nghịch
Trề môi uốn lưỡi hót mông
lung ...!*
Bày trò kết nhóm gây bè
cánh
Bẩn mắt nhân quần ghé luận
công
Áo mão cân đai màn kệch cỡm
Nhởn nhơ như mặt bọn lên
đồng.
Văn chương bát nháo tung
hô hoảng
Múa bút học hằn kiểu nổi
xung
Trăng cuội vẽ tô màu sắc ảo
Hung hăng như dã thú săn
lùng.
Giữ dùm trong sáng nguồn
ngôn ngữ
Chớ hất ngang chằng ngược
ngọn phong
Vễnh mặt khoa trương cho
thỏa thích
Chưa phai nỗi nhục đã
chao lòng!
Vẽ tô chính kiến bày ra lẽ
Đã hết thời rồi ngọn bút
lông!
Hãy quẳng đi ngay trò dị
hợm
Vị chua son phấn tưởng
hương nồng
Vọng vang tiếng thét người
cùng khổ
Đang chịu đọa đày bởi
xích gông
Khúc "Hậu Đình
Hoa" đừng hát nữa
May ra sớm có cuộc tương
phùng. *
Còn đau đớn lắm nhìn thân
phận
Mãi đứng làm gì thẹn núi
sông!
Ngựa quỵ gươm cùn trăng
nhạt bóng
Buồm căng chẳng kịp nước
xuôi dòng
Lơ phơ xỏa tóc chiều mây
bạc
Chén rượu hồ trường chửa
cạn xong
Vó ngựa chồn chân xa Ải Bắc
Nhìn ra hải đảo biệt muôn
trùng!
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Dec/01/2018
* Thay 2 vận
"ngùng", vì ngùng đi với âm bằng là tử vận.
Trong lúc toàn bài tôi muốn
họa đối vận với nguyên bản.
LƯU VONG HÀNH
Đất mẹ còn xa cách vạn
trùng
Ta còn phiêu bạt – đã mười
đông
Mười đông – vật vã vì cơm áo
Lòng vẫn chưa nguôi, nhớ chẳng cùng !
Ta nhớ một thời chinh chiến cũ
Học làm tráng sĩ luyện đao cung
Bút nghiên xếp lại, yêu đời lính
Theo gót người xưa sống vẫy vùng
Quân đội trưởng thành trong khói lửa
Dựng cờ đại nghĩa, diệt thù chung
Tình dân đã quyện theo tình nước
Thề quyết xông pha, vượt bão bùng
Bao địa danh ngời trang chiến sử
Đã làm khiếp vía giặc tàn hung
Kontum, Quảng Trị, ...cùng An Lộc
Phất phới cờ bay rợp khí hùng
Rồi đến một ngày kia, súng gãy
Ôi, trời nghiêng ngửa, đất đang rung
Tướng quân tuẫn tiết ngoài biên ải
Sĩ tốt điêu linh giữa khốn cùng
Một lũ bất tài lo tháo chạy
Những vì sao bạc rụng như sung
Bao năm chễm chệ ngồi vơ vét
Bỏ nước ra đi chẳng thẹn thùng
Ta cũng như trăm nghìn chiến hữu
Nổi trôi cùng vận nước long đong
Sa cơ mắc bẫy vòng lao cải
Rừng thẳm rào ngăn vó ngựa hồng
Ôi những ngựa hồng nay chiến bại
Cơ trời chuyển hóa, có thành không!
Đòn thù giáng xuống đâu thương tiếc
Oán hận triền miên mãi chất chồng
Lao động khổ sai, thêm đói rét
Mỗi ngày hai bữa bát ngô lưng
Thân phơi gió lộng đồi heo hút
Xác bỏ đìu hiu giữa mịt mùng
Nhớ lại những ngày đi chiến đấu
Lòng hằng giữ vững chữ kiên trung
Dù cho đã ở trong tay giặc
Đầu ngẩng lên cao, gối chẳng chùng
Đất nước tuy còn, như đã mất
Người người mang một nỗi đau chung
Hỡi ơi, hăm tám năm rồi nhỉ ?
Mà vẫn không chung một chữ
“đồng”
Tự buổi lên đường, xa tổ quốc
Làm người tị nạn, sống lưu vong
Những ai nếu vẫn còn tâm huyết
Thấy cảnh nhiều khi cũng nản lòng
Chiến hữu một thời, nay cấu xé
Bạn tù quên hết thuở lao lung
Cai thầu chống Cộng nhân
danh hão
Chụp mũ cho nhau chẳng ngại ngùng
Một lũ túi cơm, phường giá áo
Như bầy ngan ngỗng khoác lông công
Học làm con rối lăng xăng múa
Đã nát càng thêm nát cộng đồng
Báo bổ dăm ba tờ lá cải
Tập tành chữ nghĩa viết bung xung
Bôi tro trát trấu người thiên hạ
Vẫn sống dằng dai mới lạ lùng
Văn sĩ nửa mùa khoe múa
bút
Phơi bày dâm dật, cũng văn phong !
Xênh xang áo gấm về quê mẹ
Đú đởn ăn chơi cốt thỏa lòng
Chính khứa trở cờ khoe ái quốc
Ngồi chờ đón gió giữa sa lông
Nhìn quanh cũng một phường xôi thịt
Miệng lưỡi còn đang bốc rượu nồng
Đâu xót dân lành đang thống khổ
Đêm ngày rên xiết dưới xiềng gông
Những cô ca sĩ về ăn Tết
Hát “Hậu Đình Hoa” chẳng ngượng ngùng
Ôi, biết bao điều, sao nói hết
Nói càng thẹn mặt với non sông
Gươm cùn, súng gãy từ bao thuở
Bút mực này đây trải mấy giòng
Mái tóc xanh xưa giờ đã bạc
Thù nhà, nợ nước trả nào xong
Chiều nay lặng lẽ nhìn mây phủ
Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
Nguyễn Kính Bắc
*
Họa
VỌNG QUỐC HÀNH
Quê cha, đất tổ cách muôn
trùng !
Ta đành ly biệt đã bao
đông
Bao đông tính sắp gần hoa
giáp
Thương nhớ đầy vơi chẳng
tận cùng
Ta nhớ thời còn trong đại
học
Mơ đem bút mực thế gươm
cung .
Gập phải cai thầu làng
báo chí
Tố ta như một kẻ nằm vùng
.
Cũng may không vướng vòng
lao lý .
"Tam Quý" (*)
cùng bàn góp sức chung
Tính đem nhiệt huyết lo
cho nước
Hùng khí thanh niên đã nổ
bùng :
Quý Biên sốt sắng lo tài
chánh .
Quý Nghiêm thề diệt sạch
quân hung
Tuyển "Chấn Bốn
Cho" làm sát thủ,
Hắn khoe tài sức rất kiêu
hùng !
Nhận lãnh tiền nong sau mất
dấu ...
Tình hình chính trị chuyển
rồi rung .
Quảng Đức cháy tiêu trong
khói lửa
Cấm trại quân nhân cực tận
cùng !
Sư Sãi, Cha Thầy đua thúc
đẩy
Phật tử, con chiên đã nổi
sung
Bùi Phát, Ấn Quang lo
xách động
Loa vang, trống giục cứ
thùng thùng .
Sinh viên học xá buồn
thân phận
Tán chuyện tầm phào lấy đấu
đong (?)
Ngao ngán nhìn đời không
lối thoát ,
Hận mình không thể hoá
Chim Hồng
Ôi những Chim Hồng nay biệt
tích !
Chỉ là thần thoại có hay
không ?
Cố công đèn sách chi cho
uổng ?
Đèn sách ngổn ngang chất
cả chồng !
Mong ngóng chờ ngày đi Thủ
Đức
Tập đeo băng đạn thắt ngang lưng .
Lên đường chiến đấu ngoài
rừng rú
Ngủ trên sỏi đá chẳng chăn mùng !
Trai sinh thời loạn
thương bè bạn ...
Giữ gìn đất tổ một lòng
trung .
Bến Hải, Cà Mau lo đuổi
giặc
Gian lao nguy hiểm trí không chùng !
Giận thay cái lũ ham danh
lợi
Ích kỉ lăm le miếng đỉnh
chung
Cho ngáp phải ruồi vào Quốc Hội
Đồng sàng dị mộng chẳng sao " đồng"
Nhạc Trinh công Sơn vang
khắp nẻo
Khơi nguồn cho quốc phá
gia vong .
Mươi bà mệnh phụ mê bài bạc
Thúc chồng tham nhũng mới
vùa lòng ,
Cứ tưởng ăn trên ngồi trước
mãi
Đến nay mất sạch có đau
lung ?
Cả bọn nằm vùng giờ lộ mặt
Nhặng sị ta đây chẳng ngượng
ngùng !
Tướng tá ngu hèn không biết nhục
Còn dùng hồi ký đặng khoe công
Còn đòi lúc chết cờ vàng phủ :
Ta xưa chống địch vững
hơn đồng !
Bao tên quân dịch thường
tìm trốn
Nay khoe diệt giặc rất là
xung
Lũ Chệt năm nao làm lính
kiểng
giờ khoe bắt địch giỏi
truy lùng
Làng lưới vài tên
"thi sĩ dỏm"
Đòi gìn văn hoá giữ thuần
phong !
Chỉ biết gang mồn ra chửi
đổng
Tự tôn tự đại mới vui
lòng ...
Tị Nạn trở cờ đòi cứu quốc
,
Cãi nhau khản cổ tới xù
lông
Anh nào cũng nghĩ mình
tay tổ
Mở miệng phà hơi thúi nực
nồng
Chẳng xót dân đen đang khổ
ải
Quanh năm ỳ ạch với cùm
gông
Thương Nữ, MC mê nhí nhảnh
Rên "Hậu Đình
Hoa" chẳng ngại ngùng !
Quặn thắt ruột gan đau thế
sự
Hận chẳng giữ gìn được
núi sông
Nên phải nổi trôi theo vận
nước
Cùng bao rác rến chảy
chung giòng
Cho lũ lòng tong theo rúc
rỉa
Nhìn chúng loay hoay khóc
khó xong !
Nhớ giải Lĩnh Nam hình chữ
S,
Quê cha đất tổ cách muôn
trùng
Lạc Thủy ĐỖ QUÝ BÁI
*
Họa
HẬN TÁT SAO VƠI
Cuối năm gió lạnh thổi
trùng trùng
Sắp đến mùa Xuân hết tiết
Đông
Hăm chín năm trời xa đất
mẹ
Sài Gòn, Hà Nội nhớ vô
cùng
Nhớ sao giọt nắng trên hè
phố
Khói lửa tuy buồn chuyện
kiếm cung
Nhớ tiếng rao hàng khuya
vắng vẻ
Nhớ khi còn giặc đất
khoanh vùng
Nhớ như là nhớ ta ngày ấy
!
Đất nước chung và trách
nhiệm chung
Nhớ những anh hùng vừa mới
lớn
Câu thơ Chính Khí, tiệc
vui bùng
Viết sao cho đủ tình trai
trẻ
Đối kẻ thù đầy nét hiểm
hung ?
Ai ngược Chu Prong, về Quảng
Trị
Có xem trang sử thật hào
hùng
Quân ta như thác lưng chừng
đổ
Trời đất vì ta cũng chuyển
rung
Cứ tưởng lại về vui đất mẹ
Đầu hàng ! - Ban lệnh, tủi
khôn cùng !
Bao năm lạc lõng nơi quê
tạm
Đâu thể nằm chờ rụng trái
sung ?
Đâu thể mỗi người riêng mỗi
ý ?
Chỉ biết chờ nghe trống
điểm thùng
Lời nào cứu được cơn nguy
khốn
Hận tát sao vơi, đấu khó
đong
Ta chưa diệt được phường
vong bản
Chưa sao xé nát được cờ hồng
!
Ta nhìn bằng hữu mà đau đớn
Ta có mà như có vẫn không
Để mẹ tìm con, con gọi bố
Để lòng đau đớn vợ xa chồng
Cúi mình cam phận làm nô
lệ
Đạp cổ, tha hồ chúng cỡi
lưng
Mùng Một, mùng Hai, mùng
mấy nữa
Còn bao nhiêu tháng bấy
nhiêu mùng ..
Còn không những tấm lòng
son sắt
Còn có còn không chữ Hiếu
Trung ?
Sao lại đi về vui với giặc
Dây đàn không lẽ đã cam
chùng ?
Chẳng đành hổ thẹn cùng
tiên tổ
Ôi chữ giang sơn đất nước
chung
Hăm chín năm trời như mới
đó
Chưa sao viết được chữ
tương đồng
Chia năm xẻ bảy càng đau
xót
Chưa thấm ngày nào nhục bại
vong
Nhìn đến cháu con thêm
ngượng mặt
Hỏi ai có thấy xót xa
lòng ?
Sao không nhìn lại gương
người cũ
Cứ cứ đêm đêm nghĩ ngợi
lung
Gặp nhau quên nhắc câu
đoàn kết
Thấy như là ngại, thấy
như ngùng
Ngại ngùng khi ngoảnh về
quê mẹ
Chỉ thấy điêu tàn, thấy bất
công
Chụp mũ nhau chơi cho bõ
ghét
Chao ơi ! Toàn những chuyện
bao đồng!
Cuối năm, nhớ lại trang
hùng sử
Đọc lại câu thơ : Nộ khí
xung
Cộng Sản dựng lên nhà cải
tạo
Quốc gia tất cả bị săn
lùng
Tự do thống nhất là vô
nghĩa
Nhìn kỹ quân thù nhớ tác
phong
Nhìn lại để đừng quên oán
hận
Để con cháu Việt lại
chung lòng
Để mùa Xuân tới trong bàn
tiệc
Sống chết coi như một cọng
lông
Ta rót mời nhau cùng cạn
chén
Để xem men rượu ngất ngây
nồng
Mùa Xuân nay đến ta vui
chứ !
Phá nát nhà tù, bẻ xích
gông
Khúc Hậu Đình Hoa không
hát nữa
Chẳng ai còn ngại, chẳng
ai ngùng
Chỉ còn máu đỏ, da vàng mẹ
Quang phục cùng lo chuyện
núi sông
Tôi đọc bài thơ mà thổn
thức
Nối điêu cùng thử viết
đôi dòng
Tóc xanh, tóc bạc là vô
nghĩa
Khi nợ, muôn nhà chửa trả
xong
Xứ lạ đêm buồn nhớ cố
hương
Cuối năm gió lạnh thổi
trùng trùng
Sài Môn Chủ Nhân