Rầm!
Tôi và hai thằng bạn vừa
rà thắng xe đạp trước rạp Tân Tân để vào
xem phim “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” thì bị một chiếc Vélo Solex húc từ đằng
sau tới. Cả ba thằng ngã xuống đất. Riêng tôi còn bị cái xe của thằng bạn đè
lên bụng đau
muốn nín thở. Mới loi ngoi bò dậy, chưa kịp phủi bụi trên áo quần
thì nghe tiếng quát tháo:
- Ê! bộ ba “chàng ngự lâm pháo thủ”
mù cả hà. Dừng ngựa mà chẳng coi chừng phía đàng sau! Đáng đời!
Vừa ngượng vừa tức giận bởi
tự dưng bị húc té nhào giữa thanh thiên bạch nhật và trước bao nhiêu nguời đẹp,
chưa kịp nắm cổ áo cho một trận, thì bị thủ phạm tiếp tục tấn công phủ đầu. Đúng là cà chớn. Nhưng nhìn lên thì..
à..cả ba thằng khựng lại: đối phương là một cô gái, tuồi ô mai, tóc còn thắt bím, ngồi trên Vélo,
vòng tay trước ngực, trề môi, rồi trợn đôi mắt to như hai cái đèn “ô tô”:
- Số còn hên đó. Cái vélo
không bị hư gì.Tiểu thơ tha cho đó. Lần sau liệu hồn!
Nói xong cô bé nguýt một
cái rồi rồ ga chạy mất tiêu. Dù chưa bao giờ bị thầy Bửu Cân phán cho cái tội “con nhà không có lư hương”, bọn tôi
cũng phải chửi thề một tiếng cho hả giận. Thằng Cường, đứa hiền lành ít nói nhất
trong bọn tôi, xăn tay áo, xổ nho trước
:
-Đ.m. con gái nhà ai trông đẹp thế mà đanh đá
như bà chằn. Phải mà con trai thì biết tay tao.
Đúng là cô bé khá xinh,
nhất là đôi mắt thật to và đôi môi mộng đỏ, dù có trề lên ngạo nghễ, cũng vẫn
đáng yêu ghê lắm. Tôi nghĩ vẩn vơ như thế khi theo người soát vé dẫn tới chỗ ngồi.
Trong rạp tối mò. Ba thằng chúng tôi vào trể. Trên màn ảnh đang chiếu phim thời
sự: Tổng thồng Ngô Đình Diệm đang kinh lý Ban Mê Thuột (nhưng không thấy cảnh
ông bị ám sát hụt).
Suốt buổi hôm ấy, mắt
nhìn lên màn ảnh, mà tâm trí tôi thì chỉ thấy có đôi mắt cô bé, trừ khi nào có
tiếng súng nổ của ba chàng ngự lâm, tôi mới giật mình trở lại với truyện phim
đôi ba phút.
Cha tôi nói đúng, hồi mới
ba tuổi, tôi đã khóc đến cả tháng trời khi mẹ tôi mất, ông bảo rồi sau này tôi
sẽ là một thằng đa sầu đa cảm. Và hôm nay, dường như tôi bắt đầu biết tương
tư đây.
Nha Trang cũng chẳng lớn
hơn cái thành phố núi Pleiku là bao nhiêu, để ông nhà thơ nào đó “đi dăm phút
trở về chốn cũ”, vậy mà cả mấy tháng rồi, tôi chưa gặp lại cô bé, mặc dù thời ấy
Nha Trang đã có khá nhiều vélo solex, đủ làm tôi nhìn theo muốn ngoẹo cổ. Tôi
nghĩ, chắc là cô bé từ đâu đến chơi. Trông nước da trắng hồng, có thể là từ Đà
Lạt xuống thăm ai đó rồi lại biến mất như một nàng tiên trong cổ tích.
Quê tôi ở ngoài Vạn Giã.
Vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, trước ở gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái,
sau này dọn lên gần Ty Thông Tin. Chú
tôi, ngoài làm chủ tiệm bán mọi vật dụng về điện, còn thầu các công trình diện.
Ông bà chỉ có một cô con gái rượu, cưng như trứng mỏng, nên mọi thứ ngược xuôi
giao dịch ông cần tới tôi. Để tôi lên tinh thần, bỏ bớt cái tật ham chơi và lười
biếng có lẽ từ khi còn trong bụng mẹ, ông thường bảo: “Cháu còn nhỏ mà coi bộ
có khả năng thương mại. Cố gắng theo chú học hỏi,
sau này dám qua mặt tao nữa
đó.” (Cái này thì ông nói trật lất. Vì sau này tôi trở thành lính đánh giặc,
nên cả đời có buôn bán được cái gì đâu.)
Cả năm cứ mong tới mùa hè
là tôi dọt về quê thăm cha tôi và chơi với mấy thằng bạn nối khố, rủ nhau ra
con sông quê, ngày bơi lội, tối cắm câu, ngủ ngoài trời mà đua nhau đếm thử có
bao nhiêu vì sao, tìm đâu là dải Ngân Hà có cái Cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức
Nữ. Coi bộ vui và lãng mạn hơn ở trong cái thành phố Nha Trang này nhiều. Vậy mà mùa hè này tôi bị ông chú tôi
giữ lại, sau khi thuyết phục được ông già tôi, bảo là để cho tôi tập làm quen với
thương trường(!). Tôi nghe mà phát sợ, cứ như là sắp sửa bị ông đẩy tôi ra giữa
chốn sa trường!
Bài học đầu tay là tôi
xách cặp theo ông, đi dự một cuộc họp với mấy ông thầu khoán khác, trong một
công trình “hợp tác mỗi bên cùng có lợi”. Nơi họp là một ngôi biệt thự khá đẹp
nằm trên con đường Duy Tân có gió reo sóng vỗ…
Tôi rụt rè theo sau ông
chú, bước vào phòng khách. Nhiều người đã có mặt. Ông nào trông cũng bệ vệ, đặc
biệt có một ông mặc quân phục, oai phong cao lớn, mà coi bộ mọi người ai cũng nễ
trọng. Nghe nói chuyện một hồi tôi mới biết đó là ông đại tá Đỗ Cao Trí, chỉ
huy quân trường Đồng Đế. Lúc ấy tôi còn nhỏ, đâu có biết gì nhiều về lính
tráng, nhưng tôi có nghe nhiều người kể chuyện tình ông đại tá này với một bà
dược sĩ nào đó có tiệm thuốc tây trên đường Độc Lập. Bà này mới vừa ly thân ông
chồng dược
sĩ, có ông bồ là đại úy
phi công trẻ tuổi đẹp trai thường đèo bà trên chiếc vespa chạy vòng vòng ngoài
bờ biển, mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao trọc mui duy nhất ở thành phố này.
Tội nghiệp ông phi công, vừa mới bị ông đại tá này nói nhỏ bạn bè làm lớn bên
Không Quân cho bay ra tận ngoài vùng 1 xa tít mịt
mù.( Sau này ông phi công hào hoa lấy một cô
ca sĩ có giọng hát buồn…vào hồn không tên nào đó.) Nghe mấy ông bàn bạc, tôi mới
biết buổi họp này là để bàn việc xây cất và chỉnh trang lại toàn bộ doanh trại
của quân trường Đồng Đế, mà chú tôi và mấy ông bạn thầu khoán vừa mới trúng thầu.
Tôi ngồi sau lưng ông
chú, ghi ghi chép chép cứ như là… phóng viên tập sự. Nửa buổi thì ngưng họp ăn
cơm. Một bữa ăn thịnh sọan từ nhà hàng mang tới. Vì thuộc hàng con nít, nên tôi
được ưu tiên ra sân sau ngồi chung với mấy anh tài xế và con cháu ông chủ nhà.
Vừa bước ra, chưa kịp tìm chỗ ngồi,
thì tôi giật mình, sững sờ
đến mấy phút. Cô bé, cô tiểu thơ.. vélo solex, tông bọn tôi trước rạp Tân Tân gần
ba tháng trước, đang ngồi chễm chệ tự lúc nào trong cái ghế bành duy nhất bên
bàn ăn.
Lấy lại bình tĩnh, tôi đến
kéo chiếc ghế bên cạnh cô bé:
- Chào tiểu thơ, chàng ngự lâm pháo
thủ bị xe tông..ngã ngựa có được phép ngồi đây không ạ?
Cô bé nhìn tôi tròn xoe
đôi mắt. Đôi mắt mà tôi đã tìm kiếm hơn ba tháng nay, cứ tưởng đã biến mất khỏi
Nha Trang, bỗng dưng bây giờ đang mở lớn hết cỡ trước mắt tôi. Tôi ngồi yên như
bị thôi miên. Dường như vừa mới nhớ ra tôi, cô bé nhoẻn miệng cười:
- À, hữu duyên thiên lý
năng tương ngộ.! Vous cứ tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên, cô bé coi
bộ tây này còn xổ cả tiếng nôm tiếng hán. Tôi nhủ lòng: Không phải vừa đâu
nghe.
Vậy mà cái cuộc trùng
phùng khá bất ngờ này lại đưa đẩy tôi đến một nấc thang danh vọng: làm gia sư
cho cô bé. Nói gia sư cho oai phong, chứ hồi đó chì có mỗi chữ “dạy kèm”thôi chứ
sư với siếc gì.
Số là sau này, khi thực
hiện công trình, tôi thường theo chú tôi đến đây, cũng có nhiều lúc tôi đến một
mình để trao giấy tờ và tham khảo ý kiến của ông chủ thầu, papa của nàng. Dần
dà tôi quen thân với cả nhà. Gia đình
trước sống ở Đà Lạt, làm chủ mấy cái hotel. Bà vợ bị chết bởi một tai nạn giao thông
ngay trên đèo Ngọan Mục, ông già buồn quá không muốn mỗi ngày nhìn thấy bóng
dáng bà vợ trong thành phố sương mù, nên dọn xuống Nha Trang, trở lại nghề thầu
khoán gia truyền từ mấy đời trước. Ông bà
chỉ có mỗi một cô con
gái, nhưng trong nhà ông nuôi nhiều cháu và gia nhân. Gặp tôi nhiều lần, và qua
chú tôi, ông già cô bé nghe nói tôi cũng gốc nhà quê, hiền lành chăm chỉ, nên
nhờ tôi, cứ ba tối mỗi tuần ghé lại nhà kèm cô con gái cưng của ông về môn toán
và Việt văn. Cô bé vừa từ trường Domaine de Marie ở Đà Lạt chuyển xuống lớp đệ
ngũ trường Nữ trung Học Nha Trang, đọc thơ Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc
mà không hiểu bà Đoàn thị Điểm và ông Ôn Như Hầu nói cái gì trong đó…
Môn toán thì tôi không biết
vẽ rồng vẽ rắn, chứ cái môn Việt văn này coi bộ bao la trời biển quá, vẽ cái gì
chẳng được.
Hôm đầu tiên, tiểu thơ vẫn
còn cao điệu, gọi tôi là Thầy. Không biết là do lệnh của ông già, vì đề phòng
tôi “tán bậy” con gái, nên phong cho tôi cái chức ”bán tự vi sư nhất tự vi sư”
để tôi biết phận mà giữ mình, hay là cô bé choc quê tôi không biết.
Thấy “diễn nôm điển tích”
mấy câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc coi bộ không ăn khách, chẳng hấp dẫn nổi
cô bé, tôi quay sang đọc thơ cho cô bé nghe. Hồi đó ở Võ Tánh có hai nhà thơ rất
sớm nổi tiếng, mà dù là tên thật hay búthiệu gì nghe cũng đẹp làm sao: Thanh
Nhung và Cao Hoành Nhân, Tôn Nữ Nha Trang và Bùi Cao Hoành gì đó. Không biết có
đúng hay không, nhưng tôi nghe bạn bè thêu dệt về
cuộc tình lãng mạn của
hai nhà thơ học trò vang bóng một thời này. Tôi chọn mấy bài thơ ướt át nhất của
hai người đọc cho cô bé nghe. Và cũng lạ, không cần diễn nôm diễn nghĩa gì cả,
cô bé không những hiểu rất nhanh mà còn cảm nhận đến độ lim dim đôi mắt...nhìn
xa xăm.
Có một điều tôi quên nói:
cô bé cũng thuộc dòng Tôn Nữ, cũng có một cái tên hay lắm: Tôn Nữ Giáng Vân.
Nhưng tôi vẫn thích gọi cô bé là Tiểu
Thơ, cái tên mà nàng đã tự xưng khi đụng tôi trước rạp Tân Tân. Hơn nữa tôi thấy
cái tên này cũng hợp với cô bé lắm. Tôi nghĩ thầm, có lẽ nàng Tôn Nữ xứ
Huế nào cũng đẹp và...
lãng mạn đa tình.
Các tác phẩm của Tự Lực
Văn Đoàn, cô bé mê nhất là Hồn Bướm Mơ Tiên, nên thường bắt tôi kể lại cho nàng
nghe. Mẹ nàng vốn là một phật tử ngoan đạo. Sau ngày bà chết, ba nàng cúng dường
khá nhiều tiền để chỉnh trang hai ngôi chùa Tỉnh Hội, Hải Đức và cung thỉnh
thêm nhiều tượng Phật. Cô bé thường
theo cha lên chùa Hải Đức.
Nàng bảo mỗi lần lễ Phật, nàng cứ tưởng tượng mình là “chú tiểu” Lan, nhưng lại
rất sợ và bịt kín tai khi nghe có tiếng đại hồng chung, nên chắc không thể nào
giả trai lên chùa tu được.
Một hôm cô bé nhất quyết
bắt ông thầy phải làm cho cô bé một bài thơ. Nếu không thì không chịu học. Cái
này thì đúng là tiểu thơ muốn hại “đời tư” của tôi đây. Mang tiếng là học ban C
nhưng hồi giờ tôi có thơ với thẩn gì đâu, chỉ lâu lâu cùng với mấy thằng bạn trong lớp nghịch ngợm bày ra trò chơi
nối vần một bài lục bát con cóc để ghẹo
cô bạn nào đanh đá trong lớp. Vậy mà hôm ấy, không biết con tim nó ướt át đến cỡ
nào, tôi phóng bút làm xong một bài thơ chưa đầy mười phút. Đọc qua nghe có mùi
cải lương không chịu nổi, nhưng tôi cũng tự phục mình. Tôi đưa bài thơ cho nàng
đọc:
Ngày tháng trôi dần theo
nhớ thương
I như duyên nợ đã vấn
vương
Nên tình mây nước cùng
trăng gíó
Hẹn ở ngày mai một nẻo đường
Yêu vầng trăng sáng in
cành lá
Và khúc nhạc lòng dâng đến
hương
Ân ái giờ đây là mơ ước
Ngỡ một tâm tình một vấn vương
Cô bé đọc xong không biết
có hiểu gì không,(mà thực ra bài thơ cũng có nghĩa gì đâu mà hiểu
với không), gật gù khen
và hỏi:
- Sao bài thơ không có
tên?
- Có tên rồi đó mà tiểu
thơ không thấy à?
Cô bé lật qua lật lại mảnh
giấy:
-Tên với tựa gì đâu, không thấy, trả
lại thầy, không thèm.
Tôi cười, vuốt ve cô học
trò:
- Thì Vân cứ ghép tất cả
các mẫu tự đầu ở mỗi câu lại, sẽ thấy cái tựa liền.
Khổ thật, tôi còn phải giải
nghĩa thêm mẫu tự là cái gì, thì cô ta mới tìm được cái tựa bài thơ. Cô bé đỏ mặt,
vất mảnh giấy có bài thơ xuống đất:
-Không thèm chơi với Thầy
nữa.
Nói là không thèm chơi,
nhưng cũng kể từ hôm ấy cô bé thân thiết
và gần gũi với tôi hơn. Ba nàng cũng thấy tin và quí ông gia sư nhóc tì này, vì
thấy con gái cưng của mình chăm học, vui vẻ yêu đời hơn.
Mùa hè năm đó, cô bé theo
tôi về nhà quê chơi, nhân tiện có cô con gái của ông chú tôi cùng về thăm quê nội.
Dường như đó là lần đầu tiên cô bé ra một vùng quê. Không biết là gió nội hương
đồng hấp dẫn cô bé, hay là suốt ngày dung dăng dung dẻ làm nũng làm nịu với
“ông Thầy”, cô bé ca hát líu lo và bảo là yêu…đồng quê ghê lắm. Và đó cũng là một
mùa hè đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong đời học trò của tôi, dù ở quê tôi chẳng
có cây phượng vĩ và cũng chẳng nghe có tiếng con ve sầu nào rên rỉ.
Hai năm sau, tôi rời Nha
Trang vào Sài gòn học tiếp. Tôi buồn và tiếc nuối vì phải chia tay cái nghề gia
sư với cô hoc trò nhỏ nhưng có đôi mắt thật to...của mình. Cô bé được ông già
chở lên ga Nhatrang tiễn tôi đi. Tôi cũng cố làm ra vẻ “đi là chết ở trong lòng
một ít”, làm cô bé mủi lòng muốn khóc. Ông già cứ tưởng là nhờ ơn tôi mà cô bé
vừa đậu cái bằng trung học kỳ rồi, nên cũng nắm chặt tay tôi, lì xì một mớ tiền
và cám ơn rối rít…
Vậy mà cái tình yêu ấy (không
biết có đúng là tình yêu hay không, nhưng cứ nói như thế cho nó lãng mạn và người
lớn một chút) cũng làm cho lòng tôi xốn xang một dạo.
Sau đó chỉ có vài lần tôi
nhận được thư cô bé, kể chuyện những bạn bè thân quen của cô bên trường Nữ, và
chuyện chiếc máy bay phản lực rơi xuống bên cạnh rạp Tân Tân, nơi mà lần đầu
tiên tôi biết cô bé nhờ chiếc vélo của cô tông tôi ngã xuống bên lề đường.Nhưng
lần nào cũng kèm theo một bài thơ tình..con cóc.
Năm năm sau, khi cô bé đã
trở thành người lớn và quên “ông Thầy” thích đọc thơ tình cho cô học trò… lim
dim đôi mắt, thì cũng là lúc tôi hát khúc Biệt Kinh Kỳ, xếp bút nghiên theo việc
kiếm cung.
Ra trường, tôi được bổ
sung về một đơn vị lưu động trên vùng Cao nguyên gió lạnh mưa mùa. Năm 1972,
tôi bị thương trong trận Mủa Hè Đỏ Lửa ở Kontum, được đưa về QYV Pleiku điều trị.
Khi vết thương vừa lành, tôi nhận Sự Vụ Lệnh của đơn vì đề cử về Sài gòn trong
đoàn “chiến sĩ xuất sắc”
được Tổng Thống tiếp đón
tại khu vườn Dinh Độc Lập. Thực ra là tôi có xuất với sắc cái gì đâu. Khi còn
độc thân thì hăng máu lắm,
chứ đã có vợ rồi thì cũng hơi lạnh cẳng, ngại cái cảnh “anh trở về dang dở đời
em”.
Nhưng chiến tranh đang hồi
ác liệt, nếu cử chiến sĩ xuất sắc thứ thiệt đi thì thiếu người đánh giặc giỏi,
mà lại hao hụt quân số tác chiến, tôi đang trong tình trạng bất khiển dụng, nên
cho tôi đi là nhất cử lưỡng tiện. “Chiến sĩ xuất sắc” được ưu ái đi bằng máy
bay dân sự. Tại phi trường Pleiku bụi đỏ, tôi bất
ngờ gặp lại Tiểu Thơ khi tôi vừa ngơ ngác bước
lên máy bay Air Vietnam và khựng lại trước đôi mắt thật to của cô hôtesse de
l’air đang mỉm cười chào khách. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, có thêu hai
con rồng trên cổ áo, nàng đẹp như một nàng tiên. Khi chiếc máy bay DC 4 đã lấy
lại thăng bằng trên cao độ, nàng đến ngồi chiếc ghế trống trước mặt tôi, quay
ra sau trò chuyện. Trong chớp nhoáng, tôi biết là nàng đã có chồng. Anh ta là một
phi công phản lực F5, thuộc đơn vị Biên Hòa. Hai người làm đám cưới hơn một
năm. Tôi nghĩ, con gái đẹp thường chọn mấy ông không quân, vừa được tiếng có
ông xã hào
hoa, đi mây về gió, vừa
khó trở thành góa phụ. Anh phi công nào phải vừa bô trai vừa tốt số lắm mới
lọt được vào đôi mắt của Tiểu Thơ này. Tôi
nghĩ như thế mà lòng thì cũng thấy một chút bâng khuâng.
Chỉ nói chuyện được vài
câu, nàng ghi địa chỉ của tôi ở Sài gòn, rồi hẹn sẽ cùng đức lang quân ghé đón
đi
Maxim nghe Lệ Thu hát bài
Kỷ Vật Cho Em. Tôi cười, bảo là rất sợ
bài hát này, cái bài hát mà thằng lính nào nhát gan nghe xong là không còn muốn “đáo nhậm” đơn
vị nữa. Cuối cùng nàng đến có một mình, “ông xã” vừa mới biệt phái ra Vùng 1. Tối
đó thay vì đến nhà hàng Maxim, nàng đưa tôi ra Quán Cái
Chùa cho có vẻ nghệ sĩ một
chút, mời “ông Thầy” uống cà phê có hương vị Tùng Đà Lạt – mà chủ nhân
thường pha chế đặc biệt
cho riêng nàng- để nhớ những ngày cô còn ở đó...
Dường như khi đã lớn rồi,
người ta lại muốn tìm về cái thời đi học. Hai đứa chỉ ngồi nhắc lại chuyện Nha
Trang, chuyện mấy bài thơ con cóc, rồi chia tay không hẹn ngày tái ngộ. Thời chiến
tranh mà, “cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi
“ biết đâu mà hẹn.
Tháng 3 /1975, Nhatrang rồi
cả Vùng 2 mất. Bao nhiêu năm sống chết với núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, tôi
theo đơn vị chỉ còn một phần tư quân số “di tản” vào Vũng Tàu để tái bổ sung, rồi
kéo xuống tham dự những trân đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ ở những địa danh
xa lạ : Bến Lức, Cần Giuộc
thuộc tỉnh Long An, nhằm
ngăn chận địch quân đang tràn về vây hãm và pháo kích Sài Gòn.
Cũng như nhiều đơn vị
khác, vào giờ thứ 25, chúng tôi đánh giặc không có “đại bàng”. Lần cuối cùng tập
họp anh em lại hô “tan hàng” mà không còn nghe “cố gắng” nữa, thì tôi mới biết
là ông tướng tư lệnh đã có mặt trên đệ thất hạm đội Mỹ trước đó hai ngày rồi!
Thôi thì, xưa nay người ta đã nói“nhất tướng công thành vạn cốt khô” mà. Cuối cùng thì miền Nam cũng thất thủ. Đám tụi
tôi được người “anh em” chiến thắng mời vô trại cải tạo để được hưởng “chính
sách khoan hồng của kách mệnh” !
Tám năm lưu đày từ nam ra
bắc, cuộc đời thôi đành cứ như gởi theo những đám mây bay. Cái hạnh phúc bây giờ
chỉ còn là những phút giây hồi tưởng. Mà hồi tưởng cũng phải “cảnh giác”, chứ
không khéo cũng bị cùm vì cái tội ” luyến tiếc quá khứ”. Bạn bè cùng cảnh luyến
tiếc điều gì thì tôi không biết, nhưng riêng tôi lại tiếc nhớ cái tuổi học trò,
và cái thời con tim mới biết yêu. Tôi lại nhớ đến Tiểu Thơ, đến đôi mắt tròn
xoe của cô bé, và nhớ tới cái hạnh phúc làm “gia sư” của tôi còn hơn là nhớ tới
mười mấy năm làm bạn với ông Nguyễn Bắc Sơn “ta vốn hiền khô – ta là lính cậu,
đi hành quân rượu đế vẫn mang theo, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo, xem
chiến cuộc như tai trời ách nước”. Tôi hình
dung bây giờ chắc nàng đang hạnh phúc ở một chốn thiên đường nào bên nước Mỹ.
Ông xã là không quân mà, lại
đóng ở Biên Hòa nữa. Chỉ
cần một lần cất cánh nhẹ nhàng là thay đổi cả cuộc đời.
Ra tù, trở lại thành phố
xưa, tôi có cảm gíác Nha Trang sao bây giờ xa lạ quá, không còn là “hang động
tuổi thơ”của bọn tôi ngày trước nữa. Nhưng rồi tôi cũng đâu có được phép ở lại
cái thành phố này, mà phải về tạm trú ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Ở đó tôi chỉ còn
một bà cô già sống quạnh hiu trong ngồi nhà
từ đường có mái ngói âm
dương của ông bà nội. Cha tôi thì cũng đã chết cách đây sáu năm trong trại cải
tạo Đá Bàn. Mồ mả còn chưa biết ở đâu. Nhưng rồi tôi còn có cái may, là gần như
mỗi ngày tôi đều ghé lại Nha Trang một lần, bởi tôi được ông anh bà con cho tôi
làm tài xế phụ kiêm lơ xe cho chiếc xe đò nhỏ của ông chạy đường Nha Trang –
Tuy Hòa. Xe chạy bằng than và khách hầu hết là mấy bà đi buôn chuyến.
Một hôm tôi đang lui cui
đứng trên mui, thì một bà khách kêu tôi nhấc hộ đội thúng của bà lên. Bà lấy hết
sức đưa từng chiếc thúng lên, nhưng rồi lại bị sà xuống. Trong đôi thúng là những
thỏi đường màu đen khá nặng. Tôi phải dùng một cây móc sắt đưa xuống, bảo bà
móc vào để tôi kéo lên. Khi lấy sức kéo đôi thúng lên tôi bất ngờ gặp đôi mắt
thật to và tròn xoe. Đôi mắt nhìn tôi tựa hồ như xoáy vào lòng tôi nhát dao đau
buốt. Tôi nhảy xuống xe, nắm chặt đôi vai gầy còm của bà khách:
- Là em, là Tiểu Thơ đây à?
Nàng nhìn tôi, rồi nước mắt
đầm đìa.
- Tiểu Thơ, à quên…Vân,
làm sao mà em lại ra
đến nỗi này.
Nàng cúi xuống im lặng,
không nói một lời nào.
Ra đến Tuy Hòa, tôi gánh
hộ nàng gánh đường giao cho một cái quán trong chợ, rồi mời nàng đi ăn cơm
trưa. Tôi đang nóng lòng được biết về hoàn cảnh của nàng :
- Ông xã em bị kẹt ngoài
Vùng 1 rồi mất tích luôn từ đó tới bây giờ. Em có đi hỏi một vài người bạn cùng
phi đoàn, thì họ cho biết là anh ấy bị bắn rơi khi yễm trợ cho anh em Thủy Quân
Lục Chiến rút về Đà nẵng. Em chờ đợi xem anh có bị bắt cầm tù ở đâu không,
nhưng đến bây giờ thì chắc chắn là anh đã chết thật rồi.
- Còn ba em đâu ?
– Nhà cửa ba em bị tịch
thu hết. Ông bị bắt đi cải tạo với lý do từng thầu xây cất doanh trại cho Mỹ
trong phi trường. Chỉ một năm là ông chết.
– Vậy bây giờ Vân ở với
ai?
– Em ở với con gái em. Nó
gần mười tuổi rồi. Khi gặp anh ở Sài gòn là em vừa mang thai nó mà chưa biết. Mẹ
con em được đền bù một căn nhà tôn nhỏ của thương phế binh hồi trước, nằm sau
ga xe lửa.
Tôi nhét vào tay Vân tất
cả số tiền mà tôi kiếm được hôm ấy, bảo nàng mua hộ tôi quà cho cháu gái.
Sau đó tôi gặp lại nàng
chỉ thêm hai lần nữa, vì ông anh họ tôi đã phải bán rẻ cái xe hơi cho người
khác, bởi không dủ tiền sửa chữa mà còn cứ bị chính quyền trưng dụng đi chở lúa
cho hợp tác xã, không trả một đồng nào. Cũng đúng vào lúc này, tôi tính chuyện
vượt biên.
Tôi kể chuyện Tiểu Thơ
cho vợ tôi nghe. Bây giờ tôi thương cô như một người em gái. Vợ tôi tốt bụng,
thương mẹ con cô cũng như hoàn cảnh của chính mình, sẵn sàng cùng tôi giúp mẹ
con nàng đi cùng chuyến vượt biên, do chính tôi tổ chức.
Một tuần trước khi ra đi,
tôi vào Nha Trang tìm đến nhà nàng. Căn nhà khóa kín cửa. Tôi chờ đến tối mà chẳng
thấy mẹ con cô trở về. Tôi gõ cửa căn nhà bên cạnh. Chủ nhà lại là một anh
thương phế binh, nhờ mất cả hai chân nên không bị đuổi khỏi nhà… Anh cho biết
là mẹ con nàng đã dọn đi đâu cả mấy tuần rồi, không thấy về nhà.
Trời thương, chuyến vượt
biên cũng đến được bến bờ, nhờ một chiếc tàu chở dầu của Vương Quốc Nauy vớt
trên biển, trước khi cơn bão ập đến. Với ân tình này, vợ chồng tôi chọn Nauy là
nơi để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con
nhỏ dại.
Mùa hè năm 1989, vợ chồng
tôi đưa hai cô con gái sang Mỹ học, nhân tiện ghé thăm và chia buồn gia đình
ông anh họ, đi từ năm 78, định cư ở thành phố Sacramento, bắc Cali. Anh chị vừa
có thằng con trai bị chết đuối khi theo cha đi câu ngoài biển.
Bao nhiêu năm gặp lại
nhau, anh chị tiếp đón chúng tôi thật ân cần, nhưng không vui vì cái bàn thờ đứa
con trai còn nghi ngút khói hương.
Sáng hôm sau, anh chị đưa
tôi đến nghĩa trang thăm mộ cháu rồi chở chúng tôi đến một ngôi chùa Sư Nữ ở gần
đó, để bàn việc làm lễ cầu siêu cho cháu. Anh cho biết anh chị rất thân quen với
Sư Bà trù trì, Bà rất quí anh chị không chỉ vì biết nhau từ lúc còn ở Nha Trang
mà vì anh làm nghề thầu sửa chữa nhà cửa, nên cả ngôi chùa này phần lớn là do
công sức của anh cúng dường.
Ngôi chùa không lớn lắm,
khu chánh điện còn đang dang dở, nhưng vườn khá rộng và trồng nhiều loại hoa.
Trong chùa tiếng tụng kinh, gõ mõ càng đượm không khí trang nghiêm. Chúng tôi được
một cô phật tử mời ngồi uống trà và xin chờ chừng nửa tiếng, vì Sư Bà đang cúng
ngọ.
Khi ông anh bà chị đứng bật
dậy, chúng tôi chợt nhìn thấy Sư Bà vừa bước ra. Tôi ngạc nhiên vì Sư Bà còn trẻ
và trông rất phương phi, nhất là hai tai
thật to và dài xuống như tai các tượng Phật tôi thường nhìn thấy trong các ngôi
chùa. Điều làm chúng tôi thú vị là bà rất vui vẻ cởi mở. Bà bảo bà cũng là dân
Nha Trang nên rất mừng khi tiếp được người đồng hương từ tận bắc Âu đến viếng.
Sau một lúc hàn huyên,
tôi biết được Sư Bà là người có trình độ học vấn cao. Bà có cử nhân Văn Khoa và
đang học năm cuối cao học văn chương tại đại học Vạn Hạnh thì miền Nam thất thủ.
Điều ngạc nhiên hơn là Sư
Bà cho biết có khá nhiều ni cô gốc Nha trang đang tu ở chùa này, trong đó có
con gái của ông chủ tiệm ảnh nổi tiếng một thời ở đường Phan Bội Châu mà ngày xưa
tôi cùng đám bạn bè thường đến để chụp ảnh, con gái một bà chủ tiệm vàng trước
Grande Pharmacie, và một vài ni cô nữa. Bà còn bảo thật là tội nghiệp, có vài
cô đã gặp bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm trên biển Đông, chồng chết con chết,
chỉ còn lại một mình. Ban đầu Bà đưa về chùa cưu mang, rồi sau đó các cô xin được
xuống tóc qui y luôn. Sư Bà mời chúng tôi ở lại dùng cơm chay cùng với Bà, nhân
tiện bà giới thiệu với
mấy ni cô gốc Nha Trang
cho biết, bởi tôi cũng là một phật tử thuần thành.
Tôi theo ông anh bà chị
xuống bếp phụ dọn cơm. Nhưng ông anh ngăn lại :
- Chú là người lạ, không
nên vào bếp. Hôm nay chú thím là khách của Sư Bà mà.
Ngồi dọc theo chiếc bàn
dài, gồm các ni cô và một vài phật tử, chỉ có chúng tôi là “dân sự”. Sư Bà giới
thiệu chúng tôi là đồng hương, những phật tử đến từ tận Bắc Âu. Tôi vừa đứng lên
chấp hai tay trước ngực, bỗng bất ngờ bắt gặp đôi mắt thật to, tròn xoe của một
ni cô ngồi ở phía cuối bàn. Ni cô cũng vừa nhìn tôi rồi cúi xuống. Đôi mắt đó với
tôi có một cái gì thần giao cách cảm. Đúng. Trên thế gian này chỉ có Tiểu Thơ mới
có đôi mắt ấy mà thôi.
Dùng cơm xong, là đến giờ
nghỉ trưa của Sư Bà. Chúng tôi cám ơn Sư Bà và xin được cúng dường một số hiện
kim để trùng tu chánh điện.
Tôi từ giã Sư Bà, trong
lúc mắt nhìn quanh như muốn tìm kiếm một điều gì. Nhưng tất cả chỉ có im lặng,
ngoài tiếng chuông chùa ngân nga như chẳng bao giờ muốn tan đi trong không gian
bao la vô tận.
Tôi bước ra khỏi cổng
chùa. Chùa nằm trên một khu đất bằng phằng, nhưng sao tôi có cảm giác như mình
đang lững thững bước xuống chân đồi. Tôi hình dung đến Ngọc vừa chia tay “chú tiểu” Lan lần cuối cùng ở chùa Long Giáng trong
Hồn Bươm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng,
mà ngày xưa Tiểu Thơ đã bắt tôi phải kể đi kể lại bao nhiêu lần.
phạmtínanninh