Thái Tú Hạp, Hạt Bụi Này Ở Lại
- Lê Mai Lĩnh
Trên một tạp chí Văn Học Nghệ Thuật nào đó, ở một
thời điểm nào đó , mà ngay bây giờ, ông Cố Nội tôi có sống lại cũng không nhớ
được, tôi có đọc một bản tin ngắn nội dung như sau: «Nhà thơ Thái Tú Hạp, sau
khi tổ chức thành
công một buổi ra mắt sách tại một ngôi chùa nào đó, anh đã
dùng số tiền 3000 đô la để tổ chức một trai đàn cầu nguyện cho những người vượt
biển đã chết ngoài biển Đông.»
Trong thơ của anh tôi đọc được những câu như sau:
… Từ trong cõi ưu tư sầu muộn
Thân xác ta rã rời
Qua từng sát na mầu nhiệm.
(HBNBQ tr. 21)
… Với nụ cười em từ ái
Trong tim người nở ngát đóa vô ưu
(HBNBQ tr. 41)
… Em có mang về giòng sông tịnh khúc
Mà ta nghe vàng nắng đọng am mây
Gió thổi đầu non cơn sầu chín mũn
tháp chuông khua động dạ từ bi.
(HBNBQ tr. 43)
… Ta về phủ bụi trần gian
Nghe kinh Bát nhã gõ trăng luân hồi
(HBNBQ tr. 48)
… Mỗi vọng niệm an lành trong tâm ý
Đời hư không trên đỉnh nhạt nhòa sương
Dẫu mai kia sầu chia vạn ngã
Tình tháng giêng em nồng thắm cơn say.
(HBNBQ tr. 56)
…Sát na tưởng chừng dài hơn thế kỷ lo âu
Chỉ còn lại trong tâm lời cầu nguyện
(HBNBQ tr. 65)
Như thế vẫn chưa hết, ta còn có:
…Đời thắp lại những mầm xanh bát nhã
Tình thương nối nhịp lời kinh
(HBNBQ tr. 113)
…Mười năm rời xa mẹ
Lòng con đầy tiếng kinh
(HBNBQ tr. 118)
… Dựng lại căn nhà hạnh phúc
Giữa mùa xuân Pháp Hoa
(HBNBQ tr. 124)
… Một thuở ta về chim hót lá
Niết Bàn cánh mở đón ta theo.
(HBNBQ tr. 138)
… Tâm mai có còn tâm huệ
Đến đi giả tạm phù du
Sao ta giữ hoài vọng ngã
Nghì năm liễu ngọ Chân Như.
(HBNBQ tr. 154)
Như thế cũng đã hết đâu. Ta còn có:
… Ngắm mây biền biệt xứ
Ngàn dặm xa Huệ Năng
Hành trang kinh vô tự
Lòng sao mãi băn khoăn
Đông Tây nào đốn ngộ
Người xa cách tâm linh
Đời phù hư trá ngụy
Tìm đâu thấy chân kinh
(HBNBQ tr. 159)
… Nụ cười tan theo hoa
Sát na rồi vỡ nát
Ý thân tầm gửi ta
Mai trả về lửa đất
(HBNBQ tr. 163)
… Có phải là sắc hoa
Hay chỉ là giả tướng
Tâm có phải là hoa
Hay mắt nhìn ảo tưởng.
(HBNBQ tr. 173)
… Vì tâm hoài chưa định
Nên hoa vẫn còn hoa
Những sắc màu giả hợp
Như hạt bụi bay qua
(HBNBQ tr. 174)
…Em hỏi ta cắt nghĩa tình yêu
Ta mỉm cười chỉ đôi chim hót
Em hỏi ta đời sao bể khổ
Ta lặng thầm ngắm cánh hoa tan
Em hỏi ta phương nào cố quận
Ta ngậm ngùi dõi bóng mây trôi
Em hỏi ta người từ đâu tới
Ta nói thân tứ đại tạo thành
Em hỏi ta căn nhà vĩnh cửu
Ta soi tâm thấu triệt vô thường.
(HBNBQ tr. 176)
Cũng đã hết đâu như thế. Ta còn có:
…Vầng trăng từ cõi nguyên sơ
Hỏi nhau lá trúc thắm tờ Kim Cang
Bụi nào xóa dấu sắc không
Nghe thân đại nguyện hóa thân chim trời.
(HBNBQ tr. 195)
Tháng giêng cảm tạ ơn người
Hiên mây đào nụ hé cười an nhiên
Sát na bụi thuở uyên nguyên
Cố hương tỉnh thức trăm miền trăng sao.
(HBNBQ tr. 196)
Nhưng như thế cũng đâu đã hết. Anh còn «tra tấn»
chúng ta nhiều nữa. Trong Mục Lục, ta còn bắt gặp những tựa đề cho những bài
thơ như sau: Chợt Ngộ (tr. 170), Chân Kinh (tr 158), Dấu Tan Ngoài Cuộc Huyễn
(tr. 162), Thắm Tờ Kim Cang (tr. 185), Tâm Động (tr. 201), Luân Hồi Có Nhau
(tr. 204).
Cũng để tiện việc sổ sách, đọc ngay trang bìa sau,
phần giới thiệu những tác phẩm sẽ xuất bản, ta lại bắt gặp tựa đề cho một tập
thơ ở tương lai: «Giở Trang Vô Tự Trắng Nhòa Sắc Không».
Như thế là, với những Sát Na, Từ Ái, Vô Ưu, Từ Bi,
Luân Hồi, Vọng Niệm, Hư Không, Bát Nhã, Kim Cang, Chuông Đại Nguyện…. Với những
Chợt Ngộ, Chân Kinh, Dấu Tan Ngoài Huyễn Cuộc, Thắm Tờ Kim Cang. Và là với một
Giở Trang Vô Tự Trắng Nhòa Sắc Không. Ta thấy và cảm nhận ngay, đặc biệt, lồ lộ
những tư tưởng Phật, không gian Chùa, thơm hơi Chay, sặc mùi Thiền, ngát hương
hoa quả trầm, hương trong thơ của anh. Như thế hắn có chủ đích, tư tưởng khi đặt
tên cho tập thơ là Hạt Bụi Nào Bay Qua.
Theo tôi nghĩ, dù không mấy thông minh sáng láng
cho lắm, rằng thì là, điểm gặp gỡ giữa Phật và Chúa là cho rằng, Con Người Là
Cát Bụi và Sẽ Trở Về Cát Bụi. Vậy thì, hắn, thằng Thái Tú Hạp, cũng có ý nghĩ rằng,
hắn, ông Thái Tú Hạp.
Đúng như rứa:
«… Em hỏi ta người từ đâu tới
Ta nói thân tứ đại tạo thành»
Còn nữa. thêm một chuyện nữa. Đó là, trang bìa
sau, phần trên, có một tấm hình màu của nhà họ Thái. Xem hình ta thấy, một bản
mặt rất đàn ông với chiếc kính cận thị, trán rộng và cao (thông minh), tai to
(tướng Phật), miệng rộng (đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà rộng miệng tan
hoang cửa nhà), cái đầu còn tóc. Kẹt là cái đầu còn tóc. Chứ nếu đầu trọc thì
ta nghĩ ngay rằng đây là một nhà tu, một Hòa Thượng, một Thượng Tọa hay cùng lắm
là một Đại dức. Pháp danh phải là Thích Gì Đó. Chẳng hạn là Thích Đủ Thứ hay
Thích Lộn Xộn hay Thích Thi Ca. Sao không ?
Đọc thơ của hắn, nhìn bản mặt «con nai vàng ngơ
ngác» của hắn, và nghe nói Hạnh Phúc của gia đình hắn, tôi không nghĩ anh ta là
một Thích Đàn Bà.
Vợ anh là người Hoa, một người đàn bà Tàu. Theo
tôi đoán, đó là người Tàu theo phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch chứ không
phải phe Cộng sản của Mao Trạch Đông khiếp bỏ mẹ.
Lấy được vợ là người Hoa, đó là một « thành công
vĩ đại » của Thái Tú Hạp. Vì rằng, theo quan niệm của đa số người Hoa, họ không
bao giờ gả con gái cho người ngoại quốc. Hoan hô Thái Tú Hạp, kẻ chiến thắng
trong tình trường. Người đàn bà Tàu, khi yêu, họ yêu cùng trời cuối đất, một
trăm sông cũng lội, một ngàn đèo cũng qua, sá gì một đại dương không vượt biên
cùng. Họ yêu ngày, Họ yêu đêm. Yêu không mệt mỏi. Thế nhưng, khi họ ghen, họ
cũng ghen cuối đất cùng trời. Khi họ ghen, không có cơm mà ăn, không có cháo mà
húp, không có nơi mà ngủ, không có chỗ mà rút, thì làm gì có nơi mà ngồi, có
nơi mà viết, có thì giờ mà nghĩ mà suy. Nhưng Thái Tú Hạp thì có đủ thứ trên trời
đất.
Bằng chứng là, thời nào, tháng năm nào, ở đâu, hắn
cũng có thơ làm ra, có tác phẩm để xuất bản, có không gian để hội họp, có
Saigon Times trong tay để tung hoành. Đúng thế không thi sĩ Thái Tú Hạp?
Còn như, Hat Bụi Nào Bay Qua. Nhưng có những Hạt Bụi
Ở Lại. Cũng như, con người là phải chết. Nhưng có những con người bất tử. Xa
xưa, có Nguyễn Du không chết, Nguyễn Trãi không chết, Cao Bá Quát, Tản Đà không
chết…
Sau xưa thì có Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Nguyên
Sa, Tô Thùy Yên… không chết.
Sau xưa nữa thì có Luân Hoán, Hoàng Lộc, Hồ Minh
Dũng, Lâm Chương, Trần Hoài Thư, Trần Doãn Nho, Trần Trung Đạo, Phan Xuân Sinh,
Dư Mỹ cũng không chết. Cùng thời điểm này trở đi, thì Thái Tú Hạp (may ra có Lê
Mai Lĩnh tôi nữa) cũng không chết. Tôi gọi đó là những Hạt Bụi Ở Lại.
Hẳn nhiên còn nhiều người nữa, chứ đâu phải chùng
đó ngoe, chừng đó mống chừng đó gậy, gộc. Làm sao tôi nhớ hết tên, làm sao tôi
viết nhiều hơn được.
Một năm trước đây, qua nhà văn Trần Hoài Thư, anh
biết địa chỉ tôi và gởi cho tôi tập thơ. Nói về thơ của anh thì khó quá. Tôi
chưa đủ tầm.
Thơ của anh không phải đọc bằng miệng. Thơ của anh
phại đọc bằng mắt. Thơ của anh không đi trực tiếp vào tim, mà phải qua phần lọc
là cái đầu, sau đó mới rơi xuống tim gan, lục phủ ngũ tạng. Thơ anh đọc một lần
chưa thấy chi hết. Thơ anh phải đọc nhiều lần mới thấm sâu, vào kỹ. Thơ anh
không phải thơ nước đổ lá môn. Thơ anh là thơ gậm nhấm, xói mòn, đục khoét tâm
can người đọc. Thêm một lần đọc là thêm một lần khám phá. Những kẻ phàm phu tục
tử không nên đọc thơ Thái Tú Hạp. Khác với thơ Sao Trên Rừng (Nguyễn Đúc Sơn)
nhung nhúc những xú chiêng, xì líp, khăn lau kinh nguyệt, máu đỏ, máu bầm… Thơ
của Thái Tú Hạp sạch hơn, tinh khiết hơn, sặc mùi kinh kệ, chuông mõ, đạo hạnh.
Hẳn nhiên, không đa sự phiền toái như người xưa, phải tắm rửa, phải xông trầm,
trước khi đọc sách. Nhưng thơ của Thái Tú Hạp cũng cần tĩnh tâm, thanh thản, lắng
đọng, trước khi đụng tới ngôn ngữ của anh.
Sau đây là những lý do khác mà tôi khó khăn khi muốn
viết về thơ anh, một cái gì đó.
Lý do thứ nhất, từ lâu, tôi vẫn xem anh như «bậc
thầy» của tôi. Nhưng ví dụ nói thế mà anh không chịu, tôi sẵn sàng hạ giá, sale
off, mà xem anh như đàn anh của tôi. Mà ví dụ nói thế anh cũng chưa chịu, tôi sẵn
sàng hạ giá (sale off) thêm một lần nữa, tôi xem anh như người đồng nghiệp với
tôi. Mà ví dụ là đồng nghiệp đi nữa, thì cũng không thể cá mè bằng lứa, mày bằng
tao, tao bằng mày. Anh vẫn hơn tôi. Về «Đảng tịch» cũng như về «vai vế». Ngay từ
những ngày đầu của thập niên 60, khi tôi mới tập tễnh làm thơ tán gái, làm thơ
dợt le với các em nữ sinh cùng lớp cùng trường, thì tên tuổi của Thái Tú Hạp,
thơ văn của Thái Tú Hạp đã chễm chệ trên văn đàn, trên báo chí miền Nam. Thái
Tú Hạp nói riêng, và nhóm Quảng Đà nói chung với những tên tuổi Nguyễn Nho Sa Mạc,
Luân Hoán, Hoàng Lộc, Đinh Hoàng Sa, Hà Nguyên Thạch, Phan Nhự Thức, Vũ Hữu Định
đã là những tên tuổi lẫy lừng.
Tôi sợ Thái Tú Hạp từ dạo đó. Dễ chừng cách nay đã
37 năm.
Lý do thứ hai, là từ sau khi Hạt Bụi Nào Bay Qua
ra đời, đã có quá nhiều người viết về anh. Nhưng tất cả đều viết Chưa Hay. Hay
nói đúng ra, họ viết chưa đúng với tầm cỡ, kích thước, cái size, của thơ Thái
Tú Hạp. Thà rằng, họ viết đúng, viết hay, thì tôi nhờ biết mấy.
Nhưng cũng thông cảm cho họ. Thơ của Hạp sâu như vực
trời, mênh mông như đại dương, thăm thẳm như đáy lòng người đàn bà, chất ngất
hun hút cao với những lời kinh tiếng kệ. Đố ai mà nói hết, viết đủ, đào sâu,
tán rộng. Họ không đủ tài năng và thời gian chăng.
Còn tôi thì sao ? Xin thưa, tôi xin đầu hàng. Tôi
không đủ tài năng và thời gian. Biết họ nói dở, nhưng mình nói hay được, cũng
đâu phải dễ. Tôi không biết nấu phở, nhưng tôi vẫn có quyền chê một bát phở
không ngon. Ai cấm tôi.
Mỗi người cầm bút hay một người làm thơ nói riêng,
thường chỉ chọn cho mình một lãnh vực nào đó để khai thác, xào nấu, chiên kho,
hay còn gọi là sở trường. Chẳng hạn như, làm thơ về tình yêu, trước năm 1975,
không ai hơn Nguyên Sa, Thái Tú Hạp. Viết về đối kháng quốc cộng thời kháng chiến
không ai hơn Doãn Quốc Sĩ, Vũ Khắc Khoan. Viết về tâm trạng người Hà Nội di cư
1954 không ai hơn tùy bút Mai Thảo.
Viết về tâm trạng người lính trước 75, vừa mang
tính ngang tàng, bi kịch vừa mang tính hào sảng, không ai diễn tả hay hơn Nguyễn
Bắc Sơn. Viết về chiến tranh và nỗi đau của người lính bị ép mình thua cuộc,
trong thân phận kẻ lưu vong không ai hay hơn Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Hà
Thúc Sinh. Viết về quê hương trong nỗi đau mất nước lưu đày không ai nói rộng
và sâu hơn Trần Trung Đạo, Thủy Trang. Nói về tình yêu dành cho người lính Việt
Nam Cộng Hòa nồng nàn hơi ấm, đam mê, có thơ La cẩm Tú.
Thế nhưng, với Thái Tú Hạp, hắn tung hoành trên mọi
lãnh vực, Tình Yêu, Quê Hương, Bạn Bè, Chiến Tranh, và bây giờ qua Hạt Bụi Nào
Bay Qua, rõ ràng là thơ của hắn đậm nét, khai thác từ triết lý nhà Phật, về con
người về cuộc đời mà tôi đã rút ra, đã gạn lọc ở trên.
Ngay khi ở tù ngoài Vĩnh Phú, tôi ở chung với
Thanh Tâm Tuyền. Ngày ra tù tôi làm phụ thợ mộc với tác giả Bếp Lửa, Tôi không
Còn Cô Độc tại đường Lê Văn Duyệt, tôi đọc cho anh nghe những bài thơ tình tôi
làm được từ mối tình với một người góa phụ, anh nói với tôi như sau: «Thời buổi
này làm được thơ đã là một điều khủng khiếp. Nhưng cậu lại làm được thơ tình,
thì đó là điều khủng khiếp hơn cả khủng khiếp». Nay tôi mượn lại câu nói của
thi sĩ Thanh Tâm Tuyền để nói lại với Thái Tú Hạp.
Anh, cái tên Thái Tú Hạp, đang làm được những điều
khủng khiếp hơn cả khủng khiếp.
Trở lại Hạt Bụi Nào Bay Qua, anh ta có lý, cực kỳ
có lý, khi anh chọn bài thơ Xin Người Hãy Quên làm bài mở đầu cho toàn tập.
Xin Người Hãy Quên, mới đọc một lần, nó mới chạm
vào da. Đọc hai lần, nó ngấm xuống lỗ chân lông. Đọc ba lần, nó bắt đầu len qua
thớ thịt bên ngoài. Đọc lần nữa, lần nữa, nó sẽ vào tim rồi nằm vùng, đóng chốt
ở đó. Đuổi nó cũng không đi. Nạy nó cũng không ra. Nó ưa ăn đời ở kiếp trong
trái tim người đọc.
Vâng, bài thơ Xin Người Hãy Quên Rất Thái Tú Hạp.
(HBNBQ, tr. II)
Đọc bài thơ này tôi thấy nổi da gà, máu chảy rần rần
trong từng thớ thịt, tim như muốn lịm, hồn như muốn bay bổng. Sướng ơi là sướng.
Những câu bá cháy, hết xảy, dễ sợ nhất là những
câu:
em còn lạ lẫm gì
dấu vết hai bờ sông cát lở
sau mùa nước lũ cuốn trôi đi
Hai chữ «lạ lẫm» ở đây quả thật «xuất sắc»
Hay các câu:
đời không biết ta đến
chẳng biết ta đi
không còn ai nhớ trong biển hồ quên lãng
chỉ có hạt bụi chỗ ta ngồi
khoảng trống không gian quen thuộc
mỗi ngày giao động xót xa
«Biển hồ quên lãng» cũng xuất sắc không kém.
giếng nước tan nụ cười trong vắt
hồn nhiên như cỏ nội hương đồng
như viên sỏi trong khu vườn tình ái
một thuở nào em diễm phúc dạo qua
em diễm phúc dạo qua Không phải là diễm phúc dành
cho em. Diễm phúc đó là diễm phúc của chúng tôi. Chúng tôi là những viên sỏi và
được em dạo qua và dẫm lên chà xát, dí, nghiền, dẫm đạp, càng hay.
Thái Tú Hạp, ngươi hãy chia cho ta niềm diễm Phúc
đó. OK.
Hay các câu:
ngày đã trôi sông chết đuối cuộc tình
đêm hãm hiếp ý vui vừa khai nụ
hoàng hôn tan những đốm lửa bình minh
tha cọng cỏ khô về nơi mái ấm
nghe rừng xuân chuyển nắng mới qua tim
Thơ như thế không thể là thơ «bay qua một lần rồi
bền biệt hơi tăm». Hạt cát như thế không thể là hạt cát bay qua. Thơ Thái Tú Hạp
ở lại. Hạt cát Thái Tú Hạp ở lại. Tôi cam đoan như thế. Ai đánh cá gì với tôi
không.
Ông Thái Tú Hạp,
Như thế là tôi đã xong món nợ hay thực hiện đúng lời
hứa với ông. Đúng hay sai, hay hay dở, lời hay lỗ, phải hay trái, với ông, tôi
đã sòng phẳng. Tôi can đảm viết như thế mà không sợ người ta cho rằng tôi «nâng
bi» ông chủ báo, vì tôi tin tưởng rằng, không ít người đồng ý với tôi về thơ
ông như thế.
Mùa hè năm 1997, chúng tôi, «những tên cao bồi hai
súng» vùng Đông Bắc Hoa Kỳ gồm Trần Hoài Thư, Trần Doãn Nho, Lâm Chương, Phan
Xuân Sinh, Dư Mỹ, Trần Trung Đạo, Lê Mai Lĩnh sẽ quay sang «quậy» ở Cali. Ông
«chứa» chúng tôi chứ. Hãy chuẩn bị rượu từ bây giờ cho chúng tôi «tắm». OK.
Lê Mai Lĩnh
(Trích Tuyển Tập Lê Mai Lĩnh 2015)