Thơ Nói Hoang Của Thái Quốc Mưu
- Châu Thạch
Tự điển
VN định nghĩa chữ “ngộ nghĩnh” là “lạ và khác thường”.Vậy tôi xin dùng chữ nầy
để nói về một số bài thơ của nhà thơ Thái Quốc Mưu.
Tất
nghiên chữ ngộ nghĩnh không dùng như nói một đưa bé ngộ nghĩnh mà ở đây là
những bài thơ ngộ nghĩnh tức là những bài thơ có sự tinh tế và độc đáo riêng
của nó. Độc đáo vì những bài thơ nầy có một chút lập dị, một chút ngông, một
chút hài hước nhưng ý có chứa ẩn dụ cho đời suy nghiệm.
Trước hết
hãy đọc bài thơ “Bãi Biển chiều Buông”:
Bãi biển
chiều buông sóng dập dồn
Cạn nguồn ta kết thử vần ôn
Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Ông to, ông nhỏ, ông…dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn.
Cạn nguồn ta kết thử vần ôn
Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Ông to, ông nhỏ, ông…dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn.
Đọc hai
câu thơ đầu ta tưởng nhà thơ Thái Quốc Mưu là người không biết làm thơ, vì bí
thế không tìm ra từ ăn vận với chữ “dập dồn” ở câu thơ trên nên ghép đại chữ
“vần ồn” vô nghĩa vào thơ. Thường thường đó là cách làm thơ “con cóc” của những
người mù tịt về thơ. Thế nhưng đọc tiếp những vế thơ sau thì ta thấy chữ “vần
ồn” mở ra một bầu trời rộn rịp, vui vẻ của bãi biển chiều buông. “Vần ồn” từ
chỗ khô cứng trở thành cánh cửa linh hoạt cho ta bước qua một khung trời tươi
vui, đã mắt.
Thế rồi
hai câu thơ tiếp:
Từng bầy
xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Có thể
nói rằng hai câu thơ nầy tác giả tả chân. Hình ảnh các cô gái thanh xuân nằm
phơi nắng hiện ra gần như lỏa lồ trước mắt chúng ta. Hình ảnh mấy đám thanh
niên với cái nhìn khả ố cũng hiện ra trước mắt chúng ta. “Ngắm... ồn” là ngắm
gì? Ồn là tiếng động thì nghe bằng tai chứ làm sao ngắm bằng mắt được. Tất
nhiên người đọc phải hiểu chữ “ngắm... ồn” theo nghĩa xấu hơn qua hình thức
thêm chữ “L” trước chữ “ồn”. Câu thơ đến đây trở thành tục và hình ảnh đến đây
trở thành dục. Tuy thế cái tục và cái dục trong thơ không làm cho chướng mắt
chướng tai mà hiển hiện ra trong trí ta một bức tranh sống động với những hình
ảnh, những âm thanh vui tai, vui mắt.
Hai câu
luận của bài thơ như sau:
Đồi núi
cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Hai câu
thơ nầy tác giả tả phong cảnh trên bãi biển nhưng cố ý làm cho người đọc liên
nghĩ đến những bộ phận trên cơ thể các cô xuân nữ đang nằm “phơi rốn” kia. Cách
chơi chữ trong hai câu thơ trên làm cho hình ảnh như một bức tranh phóng tác và
làm cho hình ảnh tục mà ta liên tưởng tới không trắng trợn.
Đến hai
câu kết của bài thơ tác giả dùng cái cười chế diễu theo kiểu Hồ Xuân Hương xưa
kia để gom hết người đời vào trong cái sở thích “làm ở chỗ kín” kia:
Ông to,
ông nhỏ, ông... dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn
Lại chơi
chữ “vỗ... ồn” nữa. Chắc chắn người đọc nào cũng nghĩ rằng phải thêm một chữ
“L” trước chữ “…ồn” là đúng ý.
Thật ra
tác giả chơi chữ thật là khéo léo, không dùng cách nói ngược như nhiều người đã
thường dùng từ xưa đến nay. Chữ “ngắm... ồn” trong câu thơ trên thật ra là
“ngắm cồn”. Có thể hiểu ngầm “ngắm cồn” là ngắm các phần nhô lên trên thân thể
các cô nằm phơi nắng, còn nghĩa trắng là ngắm các đồi cát trên bãi biển chiều
buông. Chữ “vỗ... ồn” trong câu thơ dưới thật ra là “Vỗ bồn” có nghĩa là mọi
người đều thích vỗ bồm bộp trên mặt nước khi tắm trên biển hay khi ngồi tắm
trong bồn. Ngoài ra, “vỗ bồn” còn là điệu nhịp, một thú chơi tao nhã của giới
của tao nhân mặc khách. Thầy Trang Tử từng “vỗ bồn vừa ca”.
Hai chữ
“ngắm... ồn” và “vỗ... ồn” được tác giả giải thích cuối bài thơ sau khi để cho
người đọc được cười tủm tỉm trong cái vui hiếu kỳ và cười vui vẻ khi hiểu ra
các chữ đánh đố kia.
Bây giờ
ta hãy đọc tiếp một bài thơ “ngộ nghĩnh” khác của Thái Quốc Mưu:
CỘI NGUỒN
Ta vốn sinh ra ở chốn nầy
Bởi dòng kinh, đất bị chia hai
Ven bờ chằng chéo dây leo phủ
Hạt giống gieo neo giữa luống cày
Mương rạch xẻ lằn như mắc cưởi
Ranh rìa đắp cạn chẳng kiêng ai
Soi bờ lỗ mội tuông ra rả
Hôm sớm cứ lo đóng cọc hoài.
Ta vốn sinh ra ở chốn nầy
Bởi dòng kinh, đất bị chia hai
Ven bờ chằng chéo dây leo phủ
Hạt giống gieo neo giữa luống cày
Mương rạch xẻ lằn như mắc cưởi
Ranh rìa đắp cạn chẳng kiêng ai
Soi bờ lỗ mội tuông ra rả
Hôm sớm cứ lo đóng cọc hoài.
Trong bài
thơ “Cội Nguồn” tác giả tả nơi chốn mình sinh ra nhưng dòng thơ cũng khiến cho
người đọc liên tưởng cái bộ phận mà mọi người đều chui ra từ đó.
Chữ “Cội
Nguồn” mang hai ý nghĩa, một nghĩa trắng và một nghĩa đen. Nghĩa trắng chỉ gốc
gác của người là một vùng đất hoang sơ, nghĩa đen chỉ “cái chỗ” nơi mà người
sinh ra nó cũng rậm rạp như thế. Ta thấy dầu bài thơ nầy mang ý nào thì chốn
“cội nguồn” rất phì nhiêu ấy cũng đem đến cho ta sự thanh tịnh, lắng đọng trong
tâm hồn và một sự yêu mến trước hình ảnh dòng kinh, mương rạch kia. Khi hiểu
theo nghĩa trắng của bài thơ thì “Cội Nguồn” là địa phương nơi tác giả sinh ra.
Nhưng, khi hiểu theo nghĩa đen của bài thơ thì “Cội Nguồn’ là nơi mọi người từ
l òng mẹ chui ra. Tác giả cố
ý tả cái phong cảnh còn hoang sơ như từ thuở hồng hoang để ám chỉ cái chỗ mà
loài người lọt ra, làm cho bài thơ không dung tục mà chan chứa hình ảnh gắn bó
thân yêu nữa.
Bây giờ
xin mời bước qua cái “Sân Tennis cũ” của tác giả:
SÂN
TENNIS CŨ
Cái sân
Ten-Nít đã bao đời
Sạt lún lung tung chỗ lõm, lồi
Mấy vạch phân chia ba bốn mảnh
Đường viền đứt đoạn mấy lằn vôi
Chung quanh cỏ mọc lan tràn khắp
Một vũng nước dâng mấp mé rồi
Cây vợt nằm lỳ trên góc xó
Banh lông hai quả chẳng còn hơi.
Sạt lún lung tung chỗ lõm, lồi
Mấy vạch phân chia ba bốn mảnh
Đường viền đứt đoạn mấy lằn vôi
Chung quanh cỏ mọc lan tràn khắp
Một vũng nước dâng mấp mé rồi
Cây vợt nằm lỳ trên góc xó
Banh lông hai quả chẳng còn hơi.
Cái sân
Tennis cũ thì chẳng có gì đặc biệt nhưng tác giả đã lồng vào nghĩa đen của bài
thơ làm cho bài thơ trở nên có ý nghĩa và làm cho cái sân Tennis thật trở nên
sinh động. Sự loan lỗ của cái sân Tennis cũ là một sự phí phạm nơi dùng để vui
chơi của con người. Những hình ảnh miêu tả cái sân làm ta liên tưởng đến cái
của giống cái và cái của giống đực b ị b ỏ không thật là phí phạm.
Hai đồ
vật phồn thực của giống cái và giống đực được tác giả đem phơi bày lộ thiên
được mô tả đươi hình ảnh cái sân Tennis nên mất đi cái hình ảnh xấu khó nhìn.
Cái sân Tennis là nơi con người chơi thể thao đã bị bỏ đi hư hao nhưng qua sự
diễn tả khéo léo của tác giả, người đọc liên tưởng cái sân thành bộ phận của nữ
và của nam bị “bỏ quên” không hoạt động lâu ngày và trở nên vô dụng.
Tác giả Thái Quốc Mưu còn nhiều bài thơ như thế, những bài thơ mà tôi cho là “ngộ
nghĩnh” vì nó luôn luôn mang hai hình ảnh và một ý nghĩa. Một hình ảnh thật là
hình ảnh mô tả sự vật thật của nó. Một hình ảnh ảo được gợi lên từ hình ảnh
thật khiến cho người đọc cười tươi vui vẻ thích thú! Cả hai hình ảnh đều hàm
chứa một ý nghĩa trong lẽ sống ở đời. Đa số những bài thơ loại nầy tác giả
không dùng từ ngữ nặng nề. không dùng hình ảnh thô tục trắng trợn nhưng vẫn đem
đến cho người đọc nụ cười hóm hỉnh.
Tất nhiên
các nhà thơ làm thơ theo kiểu “nói hoang” như thế ít nhiều gì cũng chịu ảnh
hưởng của thơ Hồ xuân Hương. Tuy nhiên Thái Quốc Mưu không rập khuôn theo phong
cách xưa cũ mà riêng ông tạo được cho mình một sắc thái mới.
Thơ “nói
hoang” của Thái Quốc Mưu có hình ảnh không lộ liểu phản cảm, có nụ cười dí dỏm
nhẹ nhàng, như cách nói đùa lý thú của các bậc túc nho uyên thâm thời xưa vậy.
Châu Thạch