Tâm Lý Chiến Của Người Xưa - Giáng Ngọc
Mộ Ông Ích Khiêm |
Ông Ích Khiêm
Ông Ích Khiêm sinh khoảng vào năm 1840, người
làng Phong Lệ- phủ Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam . Ông vốn dòng dõi người cao
nguyên, truớc kia họ Ong , đến đời
Tự Đức, thi đổ cử nhân, vua cho bỏ chử “trùng” một bên nên thành ra họ Ông. Dân chúng thường gọi ông là Ông Tiễu, vì chức vụ ông hồi đó là Tiễu phủ
sứ.
Hồi nhỏ, có một hôm ông ra tỉnh chơi, giữa đường gặp đám các quan đi làm lễ nghinh xuân. Quan Tổng Đốc ngồi võng đòn cong, phủ
nhiểu điều, trên che bốn lọng xanh. Đám rước tới đâu hai bên đường phố đều đứng
chào, duy chỉ mình ông cứ ngồi nghiễm
nhiên trong quán nước, xỏ hai chân vào chiếc giầy rách của ai bỏ một
bên ….
Quan thấy ông vô lễ, bèn bắt và tra hỏi
thì ông ứng đối một cách rất hoạt bát. Nên quan ra một câu đối thử tài:
“Cắc cớ thay, hai cẳng xỏ một giày.”
Ông bèn đối ngay:
“Sung sướng mấy, một đầu che bốn lọng
.!”
Quan thôi bắt tội.
Vào thời gian sau, khi ra làm quan, ông đưọc bổ nhiệm làm Tri Huyện ở
Huế. Gặp lúc Pháp tiến công chiếm thành. Mất thành, ông bị cách chức và phải đi
“Tiền quân hiệu lực”- giống như lính
khinh binh bây giờ đi trước –
Ngày thuờng ông hay nghiên cứu binh thư, nên ông có nhiều mưu lược lại thêm
võ dõng, nên đánh giặc được nhiều trận thắng. Sau đuợc phục chức và thăng lần lên chức Tiễu phủ sứ.
Ông đánh trận dùng ít quân, chủ
yếu là quân tinh nhuệ, có mưu lược và dũng cảm.
Lúc đánh với giặc Tàu Ngô Côn, ông bày trận: Ban mai thì quay lưng
về hướng Đông, chiều quay lưng về hướng Tây. Vào thời đó đánh nhau như là cận chiến bằng gươm giáo, mác. Quân Tàu phần nhiều nghiện thuốc phiện, thuờng hay thức
khuya hút thuốc, sáng ra mắt nhắm mắt mở, bị mặt trời hướng Đông
chiếu vào đâm ra quáng gà, lạng quạng đánh không chính xác. Trận đó quân Tàu thua
phải bỏ chạy tán loạn.
Vào lúc Tỉnh thành Thái Nguyên bị
vây, trung quân Đô Thống Đoàn Thọ đưa quân
lên cứu, bị tử trận. Vua Tự Đức sai ông đi tiếp cứu. Ông đem quân đến gần nơi, đóng quân lại một chổ cách xa trại giặc rồi tối đến làm lễ tế cờ để cầu thắng trận.
Ông có 10 đạo quân, ông ra lệnh mỗi đạo quân phải dùng 10 đồng tiền - gồm có tất cả là 100 đồng. Một mặt bôi toàn
đen, một mặt bôi trắng. Đêm ấy ông lập đàn tế,
ông nói với ba quân rằng: ”Nếu thần linh phù hộ thì tất cả các đồng tiền hoặc sắp (đen hết) hoặc ngữa (trắng hết) chứ không có lẫn lộn. Ông mời toàn thể tướng sĩ cấp cao vào đàn
để thị lễ.
Ông đứng trước trai đàn, làm lễ xong khẩn to cho mọi người nghe: ”-Nếu
thần linh phù hộ thì xin cho toàn sấp hoặc toàn ngữa." Nói xong ông tung 100 đồng
tiền lên. Tất cả các đồng tiền rớt xuống mâm đều sấp hết một màu đen sì. Các tướng tá hò
reo mừng rỡ và tin tưởng rằng thần linh
sẽ phù hộ cho quân sẻ đại thắng.
Ông làm lể tạ và thu 100 đồng tiền cất giữ ngay.
(Thực chất ông đã tráo 100 đồng
tiền đã được bôi đen cả hai mặt).
Như thế lòng quân sĩ sẽ phấn chấn và rất tự
tin thắng trận khi đối diện đánh với địch
quân. Trận đó quân sĩ tin có trời giúp dốc hết lòng đánh và
đã chiến thắng.
Dẹp xong giặc ông được thăng chức
Tham Tri. Bấy giờ là vào cuối đời vua Tự Đức, giữa Pháp và triều đình còn rất
nhiều khó khăn. Ông lại vâng mệnh triều đình ra Bắc mưu đồ việc chống quân Pháp. Vừa gặp lúc nhà Thanh cho Phùng Tử Tài, Từ Duyên Húc, và quân cờ đen Lưu vĩnh Phúc sang đóng rãi rác ở các tỉnh thượng du.
Quân Tàu ỷ thế mạnh hiếp đáp, áp bức quá tàn ác dân chúng, việc cung ứng
quân phí cho họ lại quá tốn kém. Ông cho việc mượn binh Tàu đánh Pháp là thất
sách nên có làm bài thơ:
Áo chúa cơm vua đã bấy
lâu
Đến khi có giặc phải
thuê Tàu
Từng phen võng giá mau
chân nhẩy
Đến bước chông gai thấy
mặt đâu
Tiền bạc quyên hoài dân
xác mướp
Trâu Dê ngày hiến đứa răng
bầu
Ai ơi hảy chống trời Nam lại
Kẻo nữa dân ta phải cạo
đầu (1)
(1)
“Phải cạo đầu … phải để răng trắng như hạt bầu theo lệnh và tục của Nhà Thanh hồi đó.
Ông ở Bắc cho đến khi hòa ưóc Việt- Pháp ký xong, ông về lại Kinh .. Bây
giờ đến lúc vua Tự Đức băng hà, triều chính rối loạn, vua kế vị còn nhỏ. Tường-
Thuyết chuyên quyền. Văn thần, võ Tướng phần nhiều chỉ biết cầu an. Ông bực mình,bèn
đặt ra một tiệc mời khắp đủ mặt bá quan đại thần đến dự. Bàn cổ tất cả chỉ một
món thịt chó.
Lúc nhập tiệc có một số không ăn
quen, nên không ăn được, bèn hỏi món khác. Ông bèn trả lời: "Bẩm.., Hôm nay.. trên… dưới.. toàn chó cả!"
Ăn xong ,các quan gọi nước mãi không thấy
ai mang nước lên. Một lúc người nhà mới ló đầu lên bị ông quát tháo ầm ĩ: "- Lũ
chúng bây đứa lớn, đứa nhỏ ngồi ăn hại cơm trời, chẵng đứa nào lo việc nước gì
cả. “ (Tất cả do ông sắp đặt với ngươì nhà trước)
Các quan biết mình bị chơi “xỏ”
nhưng cũng đành ngậm bò hòn ra về.
Vì ông có tính khí khái, không biết lòn cúi và làm phật ý lòng hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyển văn Tường, nên sau
đó bị bắt giam vào ngục. Khi ở trong tù ông ngâm hai câu thơ:
“Nhất
giang lưỡng quốc nan phân thuyết
“Tứ nguyệt tam vương thậm bất tường “
-
Sông Hương chia hai dòng
nước thì khó nói chuyện ( Sông Hương có mùa bên trong, bên đục. Nhưng ngụ ý bên
phía Nam
sông Hương là Tòa Khâm –Pháp. Bên bờ Bắc là Nam Triều .
-
Trong 4 tháng mà thay đổi
tới 3 vua ( Dục Đức, Hiệp Hòa,Kiến Phúc) là điềm gở .
-
Hai chữ cuối của hai câu là tên của hai ông
Tôn Thất Thuyết và Nguyển văn Tường đang chuyên quyền ….
Sau này ông bị đưa ra an trí ở Bình Thuận rồi
mất ở đó ( năm 1890)..
Giáng Ngọc.
Theo "Giai Thoại Làng Nho"