Saturday, September 6, 2014

Ngô Đồng Nhất Diệp Lạc - Bút Nguyên Tử
  

            







             Ngô đồng nhất diệp lạc
            Thiên hạ cộng tri thu

Dẫu thu chưa về hay thu đã qua, không thấy bóng ngô đồng nhưng ngâm nga hai câu cổ thi, lòng ai chẳng mang mang. Hai câu thơ đã gợi lên, ngân lên trong lòng  biết bao thế hệ thi nhân và người đọc. Mười tiếng đầy ma lực, chỉ vậy thôi mà trường tồn. Do đâu? Do tác giả nắm được cái tích tắc giao chuyển. Không phải những mà một, một lá ngô đồng rụng, chi tiết thần kì khơi mở cả mùa thu.

Hình ảnh “ngô đồng nhất diệp lạc” đã thành điển cố văn học phổ biến. Trong Quốc âm thi tập, điển cố này được Nguyễn Trãi sử dụng rất sáng tạo: “Mấy người ngày nọ thi đỗ, Lá ngô đồng lúc mạt thu” (Ngôn chí II). Không phải lá ngô đồng rụng báo hiệu thu về, không phải lá ngô đồng rụng báo hiệu cuối thu mà lá ngô đồng sót lại trên cây  trong buổi tàn thu- ít ỏi, hiếm hoi. Nguyễn Trãi không mượn  điển cố này để tả cảnh thu mà chỉ để ví von, giải bày tâm sự mất mát, đơn độc của mình.

Truyện Kiều có câu: “Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng”, một dấu hiệu chuẩn bị giao mùa- chớm thu. Và khi Nguyễn Du viết: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô” tức mùa thu đã vượt qua tích tắc giao chuyển để hiện diện. Lá ngô thêm hình ảnh giếng vàng, câu thơ sang quá, “quý phái” quá! Tác giả không nói một  mà một vài lá. Nói một lặp thơ cũ vừa không hợp. Trong hai câu cổ thi, nếu dùng số nhiều là thừa và vụng, chỉ một lá rụng giữa mông lung trời đất mà con người vẫn cảm nhận được mùa thu,  một mà lan tỏa vô cùng, tuyệt vời là vậy. Còn trong câu thơ Nguyễn Du, tuy khung cảnh hẹp hơn, lá rụng có địa chỉ (giếng vàng), nhưng nói một vẫn không ổn vì nó thành con số đếm chính xác vô hồn, khiên cưỡng, phải nói “một vài”theo cách phiếm chỉ. “Một vài” vẫn là ít ỏi không xác định, dẫu không ở tích tắc chuyển mùa thì cũng là dấu hiệu báo thu sang.

Cao Bá Quát có cách riêng khi vận dụng điển cố này: “Ngô đồng nhất diệp phiêu kim tỉnh, Sắt sắt tây phong xuy dạ vĩnh” (Một lá ngô đồng bay trước giếng vàng, Hiu hắt gió tây thổi đêm dài) (Thiên thất tịch cùng với ông Thận Phu Ứng Giáo làm ra). Cao Bá Quát vẫn giữ nguyên dạng “ngô đồng nhất diệp” chỉ đổi một chút, lá ngô đồng đây không rụng (lạc) mà bay nhẹ (phiêu) trước giếng vàng. Câu thơ bảy chữ, sáu chữ dùng điển cũ, chỉ thay một chữ mà linh hoạt, nhẹ nhàng, sinh động, mới hẳn lên.

Điển cố “ngô đồng nhất diệp lạc” không chỉ có mặt trong thơ cổ điển  mà hiện diện ngay trong thơ hiện đại, thơ Bích khê:

 “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông."

Điển cũ nhưng hình ảnh sáng tạo, cảm xúc rất mới. Các thán từ, ngắt câu gợi cả một trạng thái ngạc nhiên như kêu lên. Hai câu thơ dùng toàn thanh bằng, tạo cảm giác lâng lâng nhè nhẹ buồn buồn của mùa thu. Cây ngô đồng không còn vô cảm mà vương vất nỗi buồn, lá vàng vương vất nỗi buồn. Thi sĩ Tản Đà từng viết: “Trận gió thu phong rụng lá vàng- Lá bay tường bắc lá bay sang- Vàng bay mấy lá năm hồ hết…” (Cảm thu, tiễn thu). Trận gió- mạnh quá, rụng- dứt khoát quá, lá bay như chao đảo. Đọc mấy câu của Tản Đà làm ta hình dung trận gió qua, lá rụng từng loạt, tứ tán, rồi gió dịu, mấy chiếc lá vàng rụng muộn lác đác bay. Tả cảnh trung thực quá! Nguyễn Khuyến tả: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu)- Lá đưa nhẹ, nghe tiếng kêu, không gian yên tĩnh, cảm nhận rõ sự vật nhưng sự vật vẫn mông lung. Còn “Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” của Bích Khê hết sức độc đáo. “Vàng rơi! Vàng rơi!” như gạt yếu tố thực vật đi chỉ giữ lại tính chất sắc màu, xóa khoảng cách để thi nhân hòa nhập cùng sự vật. “Vàng rơi! Vàng rơi!” rất nhẹ như đang diễn ra, lá đang rơi trong nỗi vương vấn, như gieo thả nỗi buồn xuống mùa thu. “Vàng rơi! Vàng rơi!” lại vừa như tiếng bật lên từ tâm lòng xúc động của thi nhân trước mùa thu lan tỏa đất trời.

                                                Ngô đồng nhất diệp lạc
                                                Thiên hạ cộng tri thu.

Bút Nguyên Tử