Thơ Vần & Thơ Không Vần - Song Nhị
(nhân bài viết của ký
giả Lâm Văn Sang trên tờ VTimes số 31)
Trên tuần báo VTimes số 31, ngày 29
tháng 12-2006, ký giả Lâm Văn Sang trong mục “Sổ Tay Cộng Đồng” có bài viết
dưới tựa đề: “Màu xanh trong thơ siêu thực Hải Phương”.
Đọc bài viết, tôi lấy làm ngạc nhiên,
khiến phải suy nghĩ và nói ra như một ý kiến để thảo luận. Đọc đoạn văn ông LVS
viết: “San Jose
từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản xuất ra những vần điệu nghiêm
chỉnh đóng thành tập”.
Theo cách viết đó, người ta hiểu rằng chỉ có loại thơ siêu thực, thơ không vần, thơ cách tân mới đáng gọi là thơ. Vì vậy ông LVS đã không tiếc lời, tiếc chữ ca tụng sự tâm đắc của ông với loại thơ siêu thực như sau:
“Không phải mọi thứ được in ra đều là
tuyệt phẩm”, ...Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (*) của
Hải Phương”.
Hẳn bạn đọc và những người làm thơ,
yêu thơ đã từng (hơn một lần) đọc một, hai, ba bài thơ siêu thực, thơ cách tân,
thơ dung tục và đã cảm nhận được “cái hay, cái đẹp” của nó như thế nào so với
loại thơ vần trong Truyện Kiều, trong Cung oán Ngâm khúc, trong thơ của Vũ
Hoàng Chương, của Xuân Diệu...
Lâu nay người ta đã bàn luận nhiều đến
Thơ Vần và thơ không vần, một đề tài đã “xưa như trái đất”, nhưng xem ra vẫn
luôn luôn mới, bởi bộ môn Thơ là một phần của đời sống tinh thần trong sinh
họat văn học nghệ thuật của nhân loại.
Ở Pháp vào thời vua Louis 14 đã có
những thi đàn do các nhà quý tộc lập ra để giới trí thức lịch duyệt, được nhà
vua nể trọng họp nhau nghe thơ, bàn luận về thơ và để đánh giá mà thừa nhận
danh xưng thi sĩ cho những người xứng đáng. Ở Trung Hoa, vào thời thịnh Đường,
nhiều nhà thơ không chấp nhận những ràng buộc của Khổng giáo như Đào Tiềm, Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên... đã để lại hàng ngàn bài thơ cho gia
tài văn học Trung Quốc.
Đó là loại thơ vần mà văn học Việt Nam coi như kế
thừa đã mấy nghìn năm. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự “kế thừa” này, vì
vậy Thơ Đường đã bị trào lưu thơ Mới đẩy lùi vào bóng mờ của dĩ vãng. Hoài
Thanh đã gọi đó là “một cuộc cách mạng thi ca (đã nhóm dậy vào tháng 3 -1932)
”.
Văn học, thi ca cũng như khoa học luôn
luôn đòi hỏi con người đi tìm cái mới, cái hay, cái hoàn mỹ, hoàn thiện hơn.
Người ta thấy sự thay thế vị trí của
thơ - từ cũ sang mới - sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn cho đến thời kỳ văn học miền
Nam (1954-1975), nhưng dù là cũ hay mới thì thơ vẫn là thơ với đầy đủ tính nghiêm chỉnh của vần điệu,
của nhạc tính, của thi tứ và thi ngữ.
Thời kỳ thăng hoa của thơ Việt có lẽ
phải kể là vào thời kỳ này với Thi Văn Tao Đàn, với các giải thơ toàn quốc.
Ngay cả một số nhà thơ ở miền Bắc sau thời kỳ thơ mới như Hoàng Cầm với Bên Kia
sông Đuống, Hữu Loan với Màu Tím Hoa Sim, và các nhà thơ khác trong Nhân Văn,
Giai Phẩm đều là những nhà thơ mới, đều có làm những bài thơ phá thể, thơ tự do
nhưng nhạc tính và vần điệu vẫn rất hoàn chỉnh, vẫn có thể đọc, có thể ngâm để
mà cảm nhận, mà thưởng thức.
Cùng lúc với Thơ Mới chiếm lĩnh vị trí
trong thơ Việt, thơ mới “giành được quyền sống”; thơ cũ “mất quyền sống” trong
làng thơ, cũng là lúc có những người phỏng theo thơ Pháp làm thơ tự do, thơ phá
thể, thơ không vần, nhưng không phổ biến nhiều, không lớn lên được, và không
thể tồn tại.
Mãi đến sau năm 1954, sau cuộc di cư
của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, Thanh Tâm Tuyền là người chủ trương
khuynh hướng sáng tác thơ tự do, được nhóm Sáng Tạo hưởng ứng và cổ vũ. Từ đó
cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn là... của
Thanh Tâm Tuyền, chưa bao giờ nhân rộng ra thành một trường phái có tác phẩm
hẳn hoi. Người ta thừa nhận cái công của Thanh Tâm Tuyền hô hào cho khuynh
hướng thơ tự do, nhưng không ai thừa nhận cái thành công của khuynh hướng này.
Nhà thơ Hà thượng Nhân, một nhà thơ kỳ
cựu trong làng thơ miền Nam, có lần cho chúng tôi biết, trong một lần ông được
mời vào Ban giám khảo chấm thi một giải thơ toàn quốc (VNCH), khi biết trong số
các tác giả được đề nghị có Thanh Tâm Tuyền, ông đã nói với Vũ Hoàng Chương và
Cao Tiêu xin từ chối vào Ban Giám Khảo. Ông Hà vẫn thường nói với chúng tôi: “Ai
bảo Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ, là thi sĩ, dù ông ta là một người có kiến thức,
có tài...”
Trở lại với bài viết của Ông LVS trên
VTimes số 31, quả thật tôi không hiểu được lý do gì đã gây nên cái cảm giác
“bất an” cho tác giả bài báo, khi ông viết:
“Những người làm thơ khác ở San Jose (và một phần
khác ở hải ngoại, những người có dịp ghé qua thành phố này ra mắt sách của họ),
những thi tập khác (cá nhân hay tập thể) vẫn tạo cho tôi cảm giác bất an”.
Chúng ta biết ở hải ngoại và cả trong
nước hiện nay thơ đã lạm phát đến mức báo động, nhưng thực ra chẳng hề hấn gì.
Ít năm trước thời kỳ thơ mới, tờ “Đông Pháp” ở Hà Nội mở cuộc thi thơ đã có đến
1.500 người dự thi. Hồi đó Hoài Thanh đã tự hỏi: “nước ta có bao nhiêu thi sĩ?
40 ngàn hay 400 ngàn? và ông cho biết 4.000 người có thơ đăng báo, in sách
nhưng có chừng 40 người có thơ đưa vào “Thi Nhân Việt Nam ”. Số 4.000
hay 40 ngàn hay 400 ngàn người làm thơ thời đó đến nay không ai biết tên tuổi
họ (ngoại trừ một số trong “Thi nhân Việt Nam ”). Và trong con số 40 người đó
cho tới nay cũng chỉ một số ít người đi vào văn học, đếm được đầu ngón tay,
được người đời nhắc đến.
Sự sàng lọc, đào thải của thời gian và
công luận, của người đọc là một “cán cân công lý” vô tư nhất.
Tiếp đến, ông LVS viết: “Chúng
ta vẫn tự hào một cách chung chung về chuyện đã mang cả sinh hoạt văn hóa (văn
học nghệ thuật) của miền Nam
ra hải ngoại và từ đó đã tiếp tục phát triển sinh họat này. Tin tưởng như thế
và tiếp tục bịt mắt mình, chúng ta đã đi một đoạn đường khá dài, hơn 30 năm”.
Không rõ tác giả bài báo đã có, hay sẽ
có chương trình, đề án nào cho sinh hoạt nối dài VHNT miền Nam ở hải ngoại? Và hẳn tác giả
cũng dư biết tất cả mọi sinh hoạt chính trị, văn nghệ, văn chương học thuật ở
hải ngoại đều là những hoạt động tự phát của từng nhóm, từng hội đoàn, tùy theo
khả năng và tấm lòng của họ đối với nghĩa lớn của cộng đồng, của dân tộc, mà
phần lớn đều cùng một hoàn cảnh là lực bất tòng tâm. Người đọc bài viết của Ông
LVS dù vô tư đến mấy cũng cảm thấy bị xúc phạm, khi mình bị gán ghép cho hành
vi “tự bịt mắt” với thái độ “tự hào chung chung”.
Có phải tác giả bài báo cho rằng “Tự
bịt mắt mình” nghĩa là mù quáng, là không nhìn về phía trước mà đi tới, dù phía
trước đó là cái gì, là nơi chốn nào. Cứ đi tới, đừng nhìn lại quá khứ, vứt bỏ
hết quá khứ, dù quá khứ đó như thế nào. Trong khi người sáng tác lại rất cần
chất liệu của quá khứ để viết, để suy gẫm và để rút tỉa làm bài học cho chính
mình và cho người đi sau. Tôi tin trong chúng ta không ai tán thành việc tiếc
nuối quá khứ, khóc than dĩ vãng. Không ai chủ trương hằn học hận thù với quá
khứ, nhưng nhất định không ai có thể quên được quá khứ. Quá khứ chính là vốn
sống của hiện tại, là bài học lớn và là kinh nghiệm cho hướng đi trong tương
lai.
Một đoạn khác trong bài báo:
“Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng
chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng
một cách oan uổng.”
Thật tình, tôi không hiểu ý của tác
giả bài báo muốn nói gì về nhận định này.
“Thế giới thơ từ 1975 cho đến trước
đó, năm 1954” mà ông LVS nói đến là thế giới những gì? Theo sự hiểu biết của
tôi thì “thế giới thơ” từ năm 1954 đến 1975 là một “thế giới” thơ của hai ba
thế hệ người làm thơ Bắc (di cư) Trung ,
Nam , phong phú
và đa dạng cả về nội dung tư tưởng đến hình thức. Nói đến “thế giới thơ” miền
Nam là nói đến Thi Văn Tao đàn, đến các giải thi thơ toàn quốc, đến các thi văn
đoàn và không thể không nói đến những tên tuổi như Quách Tấn, Á Nam Trần Tuấn
Khải (thơ Đường), Vũ Hoàng Chương Đinh Hùng, Tạ Ký, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Hà
Thượng Nhân, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Diên Nghị, Tuệ Nga, Quỳ
Hương... Thơ tự do có Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp...
Sau 75 “thế giới thơ” đó đã bị chế độ
XHCN với văn hóa Mac-xit xóa trắng một cách không thương tiếc ở trong nước. Vũ
Hoàng Chương ra khỏi tù, mấy ngày sau qua đời. Tạ Ký chết bụi chết bờ, Hồ Điệp
chết trên đường vượt biên. Tác phẩm của họ bị cho là sản phẩm văn hóa đồi trụy,
bị cấm đọc, cấm lưu truyền, cấm lưu trữ... Đó mới chính là sự xóa trắng đáng
kinh hoàng, chứ ở hải ngoại người ta vẫn trân trọng, vẫn đọc và vẫn kế tục
trong sáng tác, trong lưu hành, và phổ biến.
Có phải cái “xóa trắng” mà tác giả bài
báo muốn nói là từ sau 75, ra hải ngoại, và riêng tại San Jose không ai nối
nghiệp Thanh Tâm Tuyền, không phát động trào lưu sáng tác thơ văn xuôi, thơ tự
do, thơ không vần? Có phải vì suy nghĩ như vậy mà ông LVS giáng bút một cách
chủ quan và mỉa mai rằng: “San
Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản
xuất ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.
Một ý niệm rất đơn giản mà phổ quát đã
có từ ngàn xưa là khi nói đến thơ là nói đến vần điệu. Từ xưa nay, một câu nói,
một đoạn viết mà không có vần có điệu thì không ai gọi là thơ.
Tuân Tử trong thiên Nho Hiệu đã phân
biệt Thi (là thơ) với Thư (là văn xuôi). Với sự phân định rạch ròi đó, trong
văn học cổ Trung Hoa có hai bộ sách - Kinh Thi và Kinh Thư.
Một số người ngày nay hoặc do không
phân biệt được, hoặc do quá dễ dãi, thường nói “viết thơ cho gia đình”, “đi lấy
thơ ở bưu điện”, thay vì nói viết thư, đi lấy thư... nhưng một người hiểu biết
bình thường không ai lầm lẫn giữa thư và thơ; giữa văn xuôi và văn vần.
Như một nguyên tắc bất di bất dịch, từ
lâu đời: Thơ không phải/ và không thể là văn xuôi; Thư không phải/ và không thể
là văn vần. Nay khuynh hướng thơ cách tân, thơ siêu thực, thơ dung tục muốn làm
một cuộc “cách mạng” thi ca bằng cách tạo ra một loại thơ tối nghĩa, không vần,
không điệu, một mớ chữ nghĩa xà bần, thanh ít tục nhiều, nhằm biểu lộ hoặc để
thỏa mãn tính lập dị, khoa trương kiến thức, đem chữ nghĩa ra thách đố người
đọc, mà có khi chính người làm ra bài thơ đó cũng không hiểu mình muốn nói gì.
Bạch Cư Dị của Trung Hoa cách đây hơn
1.100 năm lúc làm xong một bài thơ, đọc cho người vú già nghe rồi hỏi” “Có
hiểu không?”. Nếu đáp “hiểu” thì ông mới chép lại (bằng không thì vứt bỏ).
Xin quý vị nhà thơ cách tân trước khi
đạp đổ cái cũ (thơ vần) hãy từ trong cái cũ bước ra, ít nữa phải là một người
đã từng sành sỏi thơ vần và hãy chỉ ra cho mọi người biết và hiểu được cái hay
cái dở của cái vần và cái không vần.
Trích dẫn lời nói của nhà văn Ba Lan
Witold Gombrowicz “văn chương không phải là một xí nghiệp, cũng không phải là
một sản phẩm xí nghiệp”, bài báo viết tiếp “Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt
phẩm”, và trước đó ông viết: “Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như
CƠTGBBNEC của Hải Phương”.
Ý kiến này của tác giả bài báo cho
người ta cảm tưởng tập thơ của Hải Phương không là tuyệt phẩm thì cũng là một
thi tập vượt lên trên tất cả những tập thơ khác, “từ lâu lắm”.
Tôi hoàn toàn không có ác cảm nào với
cá nhân các “nhà thơ cách tân, siêu thực”, cũng mong quý vị thực hiện thành
công cuộc “cách mạng thi ca” mà quý vị chủ trương. Riêng loại thơ dung tục thì
xung quanh tôi rất nhiều người tỏ ra ngại ngùng khi liếc mắt tới loại thơ trần
truồng giả hiệu này. Dư luận chung cho rằng cũng chỉ vì muốn mua chút danh bằng
tính lập dị, không giống ai, một số người đã tạo ra một loại “dâm thư” qua thơ,
một cách bệnh hoạn. Tôi gọi đó là loại thơ trần truồng giả hiệu, bởi vì tôi tin
một cách chắc chắn rằng quý vị “nhà thơ dung tục” ấy chỉ bày biện chữ nghĩa
trần truồng lên giấy, nhưng không bao giờ dám bày những thứ đó trước mặt gia
đình, con cái, thân nhân, người quen kẻ lạ... Chỉ khi nào quý vị ấy nói và làm
như đã viết ra trên giấy thì bấy giờ loại thơ kia mới có “cầu chứng”ù (với tác
giả của nó).
Thử hỏi nếu gia tài thi ca Việt Nam từ
Cung Oán Ngâm khúc, rồi Chinh Phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều, sang tới thi ca
thế kỷ 19 cho đến tận thời kỳ thơ Mới của Tự Lực Văn đoàn và “thế giới thơ miền
Nam” mà tất tất đều là “thơ cách tân”, thơ “tân hình thức”, thơ siêu thực thì
văn học Việt Nam ngày nay sẽ ra sao? Và nếu hôm nay thơ siêu thực thay thế toàn
bộ thơ “vần điệu nghiêm chỉnh” thì các thế hệ sau này làm thế nào để tìm hiểu,
nghiên cứu, học hỏi? Hay đến lúc bấy giờ tất cả mọi người đều đã trở thành
những “siêu nhân”, có thể đọc và hiểu được thứ ngôn ngữ thần chú, huyền bí,
hiểm hóc ấy! Giả dụ vị khai quốc công thần Lý Thường Kiệt làm bốn câu tứ tuyệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” bằng
loại thơ cách tân siêu thực thì đã có được tác dụng gì với lòng dân, với triều
đình nhà Hán, và còn tồn tại đến ngày nay không?
Có thể là quá đáng, trong khi tác giả
bài báo hết lời tán tụng tập thơ “siêu thực” có tên “cám ơn tháng giêng biêng biếc
ngực em cười” của Hải Phương thì ông lại nặng lời với những người làm
thơ khác ở San José một cách đáng tội: “Nhiều người khác ở đây (San Jose) cũng móc
gan ruột ra tuyên bố tương tự như một nhãn hiệu cầu chứng cho những gì phát
xuất từ 1954 cho đến 1975 mới là chính hiệu”.
Tôi cư ngụ tại San Jose đã gần mười
lăm năm nay, từng theo dõi mọi sinh hoạt thơ văn trong vùng nhưng chưa bao giờ
nghe ai “móc gan ruột ra” tuyên bố như vậy “để làm cầu chứng” như bài báo gán
ghép.
Một đoạn văn khác xin trích dẫn:
“Kế thừa là chuyện dễ nói hơn dễ làm
trong văn chương nhắm mắt và bịt mắt. Thế giới thơ ở San
Jose đã không tiếp nối trào lưu sáng tác thơ đa dạng ở miền Nam trước 1975.
Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến
trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng”.
Thật tình tôi không hiểu thế nào là
“văn chương nhắm mắt và bịt mắt”.
Phải chăng văn chương mở mắt là loại
văn chương siêu thực, cách tân, dung tục mà tác giả bài báo dẫn dụ người đọc
với “Màu xanh trong thơ siêu thực Hải Phương”, khi ông đưa ra kết luận: “Hải
Phương đang làm sống lại ngôn ngữ thơ Việt Nam qua CƠTGBBNEC”.
Một nhà thơ nữ nói với người viết:
“đọc thơ HP, đọc câu này của LVS ngẩn ngơ hết biết”.
Không ai có quyền bắt buộc một người
khác thích cái này hay không thích cái kia. Một bức tranh đối người này cho là
đẹp, người kia phê bình là xấu. Một bài thơ người này khen hay, người khác chê
dở; một thiếu nữ đi ngang qua, người này khen là đẹp, duyên dáng, người kia cho
là “thường”.
Người ta có thể vì một lý do nào đó mà ưa thích
và ca ngợi một cô gái làng chơi, không ai cấm cản và chê trách điều đó; Nhưng
tuyệt nhiên, không thể vì vậy mà quay sang nặng lời chê bai, lên án một cô gái
nhà lành.
Môït người có thể là “fan” của loại vũ
sexy show, topless; nhưng không thể quay lại chê bai, tẩy chay loại vũ truyền
thống dân tộc.
Cũng vậy, qúy vị có thể cảm khoái với
loại tranh lập thể, trừu tượng, nhưng xin đừng quay sang chỉ trích trường phái
“cổ điển” mà cho rằng (ví dụ): “San Jose lâu nay đã trở thành một xí nghiệp
tranh vẽ, được lắp ráp cảnh trí với chân dung nghiêm chỉnh, dùng sơn màu và cọ
đưa lên khung vải...”. Như thế có ổn
không?
Theo tôi, ranh giới giữa các trường
phái nghệ thuật cũng như giữa thơ siêu thực và thơ vần có hai dạng thái rõ rệt.
Song Nhị, San Jose 2/2007
(*) “Cám Ơn Tháng Giêng Biêng Biếc
Ngực Em Cười”