Tự Do - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
Ta ung dung vào giữa chợ đời
Lòng mở cửa – yêu thương không vị ngã
Thì cần chi kích thích tố dựng niềm vui
Mọi nhãn hiệu đeo mang chừ vứt bỏ
Ta tự do tự tại giữa vô thường
Sáng chủ nhật lên đồi cao hóng gió
Trải giấc nồng ngoài tiếng hát trùng dương.
( Đường Về Minh Triết,
nxb Văn Nghệ, 2007)
ÁP LỰC VẬT CHẤT ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI VỪA TỪ TRẦN
(Sưu tầm về tâm linh – có phát biểu của một số nhà khoa học VN và thế giới)
(Trích trong Trở Về Từ Cõi Sáng – Nguyên Phong
tuyển dịch; nxb Đồng Nai, 2013;
https //thuvienhoasen
org/p104a26528/tro-ve-tu-coi-sang)
---
(Những chỗ chữ in hoa và vài chỗ trong ngoặc đơn
là do người đọc nhấn mạnh, làm cho rõ nghĩa)
---
Trong những lần trước, chúng ta đã tìm hiểu về
đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đã chết rồi hồi sinh (near
death experience). Trong phần nầy chúng ta sẽ tìm hiểu về những áp lực vật chất
đối với những người vừa từ trần. Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp
khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng
cái trống, nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống mãi mà cũng không no.
Có lẽ điều nầy ám chỉ những vong linh còn nhiều dục vọng, (tâm ý) vẫn thèm khát
cái thú vui vật chất, nhưng vì KHÔNG CÒN THỂ XÁC ĐỂ THOẢ MÃN nên bị dục vọng
hành hạ biến thành một loài quỷ đói.
Theo các sách vở viết về thế giới bên kia thì
đây là một cõi ĐƯỢC CẤU TẠO bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên
tử cõi trần, nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đây phải
biết loại bỏ đi những phần tử (mang năng lượng) nặng trược tích tụ trong kiếp
sống ở cõi trần như dục vọng, sự quyến luyến, lòng ham ăn uống hay đòi hỏi xác
thịt. Vì trước sau ai cũng phải đến đó nên SỰ HIỂU BIẾT VỀ CÕI GIỚI NẦY là một
điều rất cần thiết. Nếu khi du lịch qua xứ lạnh, người ta chuẩn bị y phục ấm để
khỏi bị lạnh, thì sự chuẩn bị để qua cõi nầy cũng đòi hỏi một sự CHUẨN BỊ cẩn
thận. Dĩ nhiên sự giải thoát khỏi các áp lực vật chất không phải dễ, vì trong
mấy chục năm sống ở cõi trần người ta đã trầm mình trong dục lạc, muốn cởi bỏ
đâu phải trong một thời gian ngắn như vài ngày hay vài tháng mà được. (…..)
Cuốn Revelations của nhóm Les Amis de Chamfleury
đã ghi nhận rất nhiều trường hợp về những áp lực vật chất mà danh từ Phật giáo
gọi là “Cận tử nghiệp”, chúng tôi xin trích dịch một trường hợp tiêu biểu như
sau.
----------
Bác sĩ Otto Kunz làm việc tại bệnh viện thành
phố Annecy, Thuỵ Sĩ. Ông bà Kunz có một người con trai duy nhất tên là Jo đang
theo học đại học Geneve năm thứ hai. Vào tháng 4 năm 1952, cô thư ký của bác sĩ
Kunz nhận được thư của một người tên là Bernard Piquet viết cho bác sĩ, nhưng
vì bất cẩn cô xếp lầm bức thư nầy vào một chồng hồ sơ bệnh lý dày cộm trên bàn,
thư bị thất lạc. Hai tuần sau đó, cậu con trai của bác sĩ đi bơi và chết đuối
trong hồ Geneve. Đến cuối tháng, sau khi dở hồ sơ bệnh lý, bác sĩ Kunz tìm thấy
bức thư thất lạc, nội dung báo trước cái chết của cậu con trai Jo và yêu cầu
bác sĩ tiếp xúc với người viết thư.
Đại khái bức thư như sau: “Thưa bác sĩ, tôi được
giao phó một công việc rất khó khăn mà tôi không biết phải xử trí ra sao. Việc
nầy đã gây cho tôi nhiều bối rối nên tôi mạo muội viết thư nầy cho bác sĩ, mặc
dù chúng ta chưa hề quen biết. Tôi thấy trước tại nghĩa địa thành phố Annecy
một ngôi mộ mới của một cậu con trai tên là Jo Kunz, con của bác sĩ. Cậu vừa
thi xong kỳ thi năm thứ hai đại học rồi đi tắm và bị chết đuối. Đây không phải
là lần thứ nhất tôi biết trước được những việc sẽ xảy ra, nhưng tôi không bao
giờ can thiệp vào những việc nầy. Tuy nhiên, lần nầy tôi nhận được lời yêu cầu
phải thông báo tin nầy cho bác sĩ trước khi sự việc xảy ra, nên tôi rất ngần
ngại vì sợ bác sĩ cho rằng tôi đang toan tính việc gì chăng! Tôi suy nghĩ rất
kỹ và sau cùng quyết định viết thư nầy để xin bác sĩ liên lạc với tôi qua địa
chỉ và số điện thoại sau...”.
Là người hoàn toàn tin tưởng vào khoa học, bác
sĩ Kunz rất ngạc nhiên vì lá thư đến trước khi chuyện xảy ra, nên ông vội điện
thoại cho ông Bernard Piquet. Trong cuộc tiếp xúc, bác sĩ Kunz được biết ông
Piquet không những là một người có địa vị trong xã hội, mà còn là một nhà thần
linh học chuyên nghiên cứu về cõi giới bên kia cửa tử. Ông Piquet cho biết có
rất nhiều vong linh sống vất vưởng, không nơi nương tựa, không người giúp đỡ,
vì còn quá nhiều quyến luyến với cõi trần nên không thể siêu thoát. Nhiệm vụ
của ông là liên lạc, giúp đỡ và hướng dẫn những vong linh nầy để họ có thể
thích hợp với đời sống ở cõi bên kia. Bác sĩ Kunz không tin tưởng ở những điều
mơ hồ viển vông mà ông Piquet nói, nhưng nể ông nầy là người có địa vị trong xã
hội nên chỉ nói vỏn vẹn:
- Thưa ông Piquet, những điều ông nói hay lắm,
nhưng ông có thể giúp đỡ tôi điều gì? Ông muốn xin chúng tôi điều gì chăng?
- Bác sĩ đừng hiểu lầm. Tôi không muốn xin xỏ
một điều gì cả, nhưng cậu Jo, con của bác sĩ, đang cần sự giúp đỡ của bác sĩ vì
cậu đang vô cùng đau khổ.
Nghĩ ông Piquet có ý xấu, bác sĩ nổi giận:
- Ông muốn gì thì cứ nói thẳng ra, con tôi đã
chết rồi, xin đừng gợi lại những điều đau đớn đó nữa. Làm sao tôi có thể giúp
đỡ con tôi được?
Ông Piquet bình tĩnh trả lời:
- Thưa bác sĩ, tuy đã chết nhưng cậu Jo không
siêu thoát vì đang bị ám ảnh bởi tâm trạng khủng hoảng lúc chết, do đó cậu rất
đau khổ. Tôi cố sức giúp đỡ cậu nhưng vô hiệu. Có lẽ chỉ bác sĩ mới có thể giúp
đỡ được cậu Jo mà thôi, vì ngày thường cậu rất phục bác sĩ.
- Tại sao ông biết điều đó?
- Đó là việc của tôi. Tôi vẫn thường liên lạc
với thế giới bên kia cửa tử...
(…..)
Bác sĩ Kunz chấp thuận với điều kiện buổi tiếp
xúc (nhập hồn) phải được tổ chức tại trường đại học y khoa Geneve, dưới sự
chứng kiến của một nhóm bác sĩ bạn thân của ông. Không những thế, buổi tiếp xúc
còn được thu vào băng để làm tài liệu kiểm chứng.
(…..)
Ông (Piquet) quay ra phía những người quan sát
gần đó:
- Nầy các bạn, các bạn phải cầu nguyện một cách
chân thành. Cậu Jo cần nhận được những rung động thanh cao, dồi dào của tình
thương phát xuất từ trái tim của quý vị. Chỉ có TÌNH THƯƠNG mới có thể đưa linh
hồn cậu thoát khỏi các áp lực vật chất mà thôi.
(…..)
Bà Kunz xúc động khóc ầm lên nhưng ông Piquet
cản lại:
- Xin quý vị hãy bình tĩnh, đừng làm cậu Jo thêm
đau khổ. Quý vị hãy cầu nguyện chân thành, vì chỉ có sự chân thành mới có thể
giúp được Jo trong lúc nầy mà thôi. Xin quý vị hãy tự xét lòng mình xem có
thanh khiết hay không, vì chỉ có sự THANH KHIẾT mới có thể rung động và ảnh
hưởng đến thần trí đang đau khổ của Jo. Chúng ta nên yên lặng và nghĩ đến
THƯỢNG ĐẾ, vì chỉ có ngài mới có thể giúp được chúng ta trong lúc nầy. Tuy một vài
người trong quý vị có lòng thương Jo nhưng vẫn chưa đủ, mà cần có sự hoà hợp
của nhiều người để tạo ra được một mãnh lực vươn lên cõi trên cảnh tỉnh Jo.
Quý vị đừng nghĩ rằng Jo đã chết. Cậu KHÔNG HỀ
CHẾT như quý vị nghĩ đâu, mà chỉ đi qua MỘT CÕI GIỚI KHÁC mà thôi. Quý vị có
thể chuyển đến cho Jo những tư tưởng thân ái, những tình cảm chân thành, vì chỉ
những thứ nầy mới làm cho Jo thoát được tình trạng u mê hiện nay. Càng than
khóc quý vị càng làm Jo thêm đau khổ, và càng đau khổ thần trí Jo càng u mê,
quyến luyến, hoảng hốt, không ích lợi gì cả.
(…..)
Cậu Jo bật lên một câu:
- Cha mẹ ơi rong rêu bám đầy vào miệng con ghê
gớm quá!
- Con cứ bình tĩnh, mọi việc đã qua rồi. Hiện
nay con đang ở bên cha mẹ, không có gì có thể làm hại con nữa đâu. Này Jo, ngày
trước con hát hay lắm, con hãy hát một bài cho cha mẹ nghe đi.
Cậu Jo bật cười thành tiếng, hát một bản nhạc
thịnh hành rồi thăng. Lúc đó ông Piquet mới lên tiếng giải thích:
- Cháu Jo từ trần quá sớm, cháu còn quyến luyến
cha mẹ, tiếc cuộc đời còn đẹp nên không muốn từ bỏ cõi trần. Do đó cháu cứ BÁM
VÍU VÀO THỂ XÁC nên thần trí bị u mê. Cái ÁP LỰC VẬT CHẤT nầy rất kinh khủng
cho những ai muốn bám víu vào cõi trần, nên người chết cứ bị ám ảnh bởi hoàn
cảnh khi chết. Dĩ nhiên họ rất đau khổ. Vấn đề là phải biết hướng dẫn cho cháu
BIẾT CHẤP NHẬN SỰ CHẾT để được siêu thoát. Muốn như thế, cháu cần phải hiểu
biết về đời sống ở cõi bên kia, loại bỏ những quyến luyến thì mới có thể tiêu
diêu tự tại được. Các ông bà nên biết, có rất nhiều người chết vẫn ở trong
trạng thái lúc chết, từ năm nầy qua năm nọ mà không siêu thoát. Họ không sống ở
cõi trần, không sống ở cõi chết, mà cứ ở giữa hai cõi. Chính cái hoàn cảnh
không sống mà cũng không chết nầy làm họ u mê đau khổ.
Muốn giúp họ chỉ có một cách duy nhất là CẦU
NGUYỆN THẬT CHÂN THÀNH, để sự thương yêu của quý vị tạo ra một mãnh lực soi
sáng tâm tư đang hồ đồ của người vừa mới chết. Các sự than khóc, kêu gọi ồn ào
chỉ làm tâm tư người chết đã bối rối lại còn hoang mang thêm, không ích lợi gì
hết. Do đó một đám tang phải được cử hành trong sự chân thành cùng cầu nguyện.
Quý vị nên biết cõi giới bên kia cửa tử không
phải là một cảnh thiên đàng hay địa ngục như người ta thường diễn tả, mà là MỘT
CẢNH GIỚI RẤT SÁNG, một thứ ánh sáng tràn đầy yêu thương của đấng sáng tạo. Tại
đây người ta có dịp HỒI QUANG PHẢN CHIẾU ý thức thực của mình (tức là nhìn lại,
cảm nhận tâm ý mình), để quyết định cho đời sống ở kiếp sau. ĐỜI SỐNG BÊN NÀY
RẤT YÊN LÀNH, THOẢI MÁI vì chỉ có các tư tưởng rung động thanh cao, không hề bị
ô nhiễm bởi các dục vọng vật chất. Muốn thích hợp với đời sống này, con người
cần biết loại bỏ các RÀNG BUỘC vật chất như lòng tham lam, ích kỷ. Cháu Jo hiện
nay vẫn còn bị ám ảnh nhiều bởi tâm trạng lúc chết, nhưng tôi tin cháu sẽ hiểu
biết và siêu thoát.
Sau buổi tiếp xúc, các bác sĩ trong hội đồng Y
khoa đã họp nhau bàn thảo về trường hợp nầy. Đa số tỏ ra nghi ngờ, vì họ chưa
thấy một bằng chứng rõ rệt nào rằng người nhập xác đồng chính là cậu Jo. Bác sĩ
Kunz cũng bối rối không biết có nên tiếp tục nữa không, nhưng bà Kunz thì hoàn
toàn tin tưởng, bà nói:
- Nghe tiếng nói tôi biết đó chính là Jo, không
ai có lối nói như vậy ngoài Jo. Hơn nữa, bài hát đó vẫn là bài Jo thường hát,
người ngoài không thể biết được. Các ông nghi ngờ ông Piquet đã đánh lừa chúng ta,
nhưng ông ta làm thế để làm gì? Cho đến nay, ông Piquet chưa hề đòi hỏi hay lợi
dụng chúng ta một điều gì.
(…..)
Khi ông Piquet thốt lên lời cầu nguyện thì cậu
Jo lắng tai nghe một cách chăm chú, không còn ú ớ như trước, rồi bỗng nhiên cậu
cất tiếng đọc theo một cách chân thành. Khi vừa đọc đến câu cuối: “Con quyết
tiến lên CÕI SÁNG...” thì cậu bất ngờ reo lên:
- Ô nhìn kìa! Ánh sáng! Ánh sáng đẹp quá... Cha
mẹ ơi, ánh sáng đẹp quá... Con đã ra khỏi đường hầm tối tăm rồi, trước mặt con
toàn là ánh sáng...
Mọi người nín thở theo dõi. Bà Kunz cảm động
khóc thút thít. Cậu Jo reo lớn mừng rỡ:
- Cha mẹ ơi, ánh sáng ở đây đẹp tuyệt vời! Con
thấy nhẹ nhõm làm sao... Con có thể bay bổng lên được. Thích quá! Thích quá!
Phải rồi, con không còn ở dưới nữa mà đã bước vào cõi sáng... Ở đây ánh sáng
đẹp tuyệt vời. Cha mẹ ơi, con sung sướng quá, con đã được giải thoát rồi...
Ông Kunz mừng rỡ kêu lớn:
- Phải đấy Jo con ơi, con đã bước vào cõi sáng
rồi. Suốt mấy tháng nay con không thể nói được, nhưng bây giờ con đã nói được
rõ ràng rồi.
Ông Piquet ra hiệu cho mọi người cùng quỳ xuống
chấp tay cầu nguyện:
- Hỡi đấng Đại Từ Phụ, chúng con cám ơn ngài đã
giúp cho cháu Jo. Chúng con yếu đuối không thể làm gì hơn là xin quỳ mọp dưới
chân ngài và xin ngài chăm nom cho phần hồn của cháu Jo. Chúng con tin tưởng
nơi lòng bác ái cao cả của ngài...
Cậu Jo nói lớn:
- Cha mẹ ơi, con đã bước vào cõi sáng rồi, tại
đây con rất thoải mái an lành, xin cha mẹ đừng lo lắng gì nhiều về con.
Nói xong, Jo cười một cách sung sướng rồi thăng.
Mặc dù buổi cầu có kết quả tốt đẹp, nhưng đa số
mọi người vẫn không tin tưởng cho lắm. Một số bác sĩ đã nghi ngờ rằng đó chỉ là
một màn kịch được đạo diễn bởi ông Piquet, mặc dù họ không biết ông nầy làm thế
với mục đích gì. Cuộc bàn cãi trở nên sôi nổi hơn khi bác sĩ Kunz có ý nghiêng
về phía ông Piquet và tỏ ý chê trách các bạn đồng nghiệp đã quá khắt khe với
những dữ kiện thu thập được. Sau cùng mọi người đồng ý sẽ tổ chức buổi nói
chuyện với Jo thêm một lần nữa.
Hai tuần lễ sau Jo trở lại, lần nầy cậu tỉnh táo
hơn và đã nói như sau:
- Cha mẹ ơi, khi xưa con CHỈ BIẾT NGHĨ ĐẾN ĐỜI
SỐNG VẬT CHẤT. Con nghĩ đến tương lai huy hoàng sau khi tốt nghiệp đại học. Con
nghĩ đến những tiện nghi của đời sống như có một chiếc xe hơi, một căn nhà
riêng, và một tình yêu thật đẹp. Chính vì thế mà con không muốn rời bỏ cõi
trần, nên cứ sống trong trạng thái bị ngộp nước suốt mấy tháng. Đó là do lỗi
của con, quá thiết tha với cái vỏ vật chất mà con không muốn từ bỏ.
Bây giờ bước qua cõi sáng, con nhìn lại và thấy
mình quá ngu dại, lầm lẫn. Từ chỗ của con ở mà NHÌN LẠI CÕI TRẦN, con thấy cõi
trần âm u, ảm đạm làm sao, khác hẳn với SỰ TƯƠI SÁNG CỦA CÕI NẦY. Đời sống của
con bây giờ đẹp lắm, đẹp không thể tả được. Phải chi khi vừa chết con biết được
như vậy...
(…..)
Bác sĩ Morris ngồi chết sững. Mỗi câu nói của Jo
là một mũi kim xuyên vào tim ông. Làm sao Jo biết được điều nầy? Những sự kiện
riêng tư nầy (của ông) làm sao một người ngoài có thể biết được, trừ khi họ
quan sát nó từ một cõi giới nào đó? Liệu ông có nên tin những câu nói mơ hồ
phát ra từ miệng một đồng tử như vậy không? Là một khoa học gia, ông không thể
chấp nhận những điều “phản khoa học” như thế nầy được, nhưng ông cũng không thể
phủ nhận những dữ kiện có tính cách cá nhân mà ông không ngờ nhất. Mặt ông dúm
dó lại như đau đớn lắm. Sau cùng ông run rẩy nói:
- Cám ơn... cám ơn Jo. Bác đâu ngờ sự tình lại
xảy ra như vậy...
Cậu Jo quay qua một người khác:
- Còn bác Franz nữa. Có phải bác đang nghĩ rằng
cõi giới bên kia cửa tử là một nơi nào xa lắm, xa như một tinh tú trên bầu trời
mà người ta không thể đến được không?
Bác sĩ Franz giật nẩy mình, ấp úng:
- Phải... phải đấy... nhưng làm sao cậu lại
biết?
Jo cười lớn:
- Cháu có thể đọc được tư tưởng của bác. Ở cõi
bên nầy người ta có thể đọc rõ tư tưởng của những người bên cõi trần một cách
dễ dàng. Nầy bác Franz, điều bác nghĩ không đúng đâu! Cõi giới bên nầy RẤT GẦN
với cõi trần, và chỉ trong chớp mắt là người ta có thể qua đến bên nầy. Để cháu
lấy một thí dụ cho dễ hiểu: Khi bác mặc áo choàng (tức còn thể xác) là lúc bác
ở cõi trần, và khi cởi bỏ áo choàng ra (tức bỏ thể xác) là bác đã qua cõi bên
kia rồi. Con người của bác khi khoác chiếc áo choàng và khi cởi bỏ nó nào có
khác gì đâu, vẫn y nguyên như trước đấy chứ. Bác không hề thay đổi gì, cũng như
đi làm bác mặc áo choàng rồi về nhà cởi bỏ áo ra, bác đâu thình lình bay bổng
lên một hành tinh nào đâu, bác vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ đấy chứ.
Nói một cách khác, khi từ trần người vẫn ở
nguyên chỗ cũ, chỉ có khác là các giác quan thuộc về xác thân đã hư hại không
còn sử dụng được nữa, nhưng CÁC GIÁC QUAN MỚI lại bắt đầu làm việc. Sau một
giây phút thay đổi như người đang đi ở chỗ tối bước ra chỗ sáng, bị loá mắt một
lúc rồi mới có thể nhìn được mọi vật một cách rõ ràng, thì cũng như thế, nhờ
các giác quan mới hoạt động mà người ta có thể ý thức được cõi giới bên nầy một
cách rõ rệt hơn.
Điều đáng nói ở đây là sự QUYẾN LUYẾN VỚI CÕI
VẬT CHẤT, giống như người từ chỗ tối bước ra chỗ sáng lại CỨ NHẮM MẮT, không
muốn nhìn gì nữa. Tuy họ không còn ở chỗ tối nữa, nhưng họ cũng chưa thể thấy
gì ở cõi sáng vì nhắm mắt chặt. Đó là cái áp lực vật chất, cái cảm giác u mê,
đau khổ đè nặng lên tâm thức con người khiến cho họ trở nên tê liệt không sáng
suốt, không ý thức và cũng không hiểu biết gì. Ôi, cái tâm trạng sống không ra
sống mà chết cũng không ra chết, CỨ VẤT VƯỞNG trong trạng thái lúc từ trần, ở
giữa hai cõi giới nầy thật vô cùng ghê gớm, không thể tưởng tượng được.
Cậu Jo im lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Con muốn nói để cha mẹ và mọi người hiểu thêm
về thế giới bên nầy. Có rất nhiều vong linh sau khi từ trần vẫn KHÔNG CHỊU RỜI
BỎ những ràng buộc vật chất. Số nầy rất đông, họ sống vất vưởng, lang thang,
đói khổ, không nơi nương tựa, không biết phải làm gì và cũng KHÔNG CHỊU NGHE
AI. Phần con thì rất thoải mái, muốn làm gì cũng được. Con có thể bay lên bay
xuống nhẹ nhàng, nhưng con thích ở bên cõi sáng nầy hơn, vì mỗi lần đi trở lại
cái đường hầm âm u tăm tối kia con thấy buồn lắm. Buồn vì thấy còn có những
người cứ u mê, than khóc, buồn vì cứ nghe những câu trách móc, than van, những
lời nguyền rủa, những sự oán hận, đau đớn không thể kể xiết. Mấy tháng trước
con cũng như thế, nhưng nhờ cha mẹ và mọi người cầu nguyện mà con tỉnh thức,
thoát khỏi cái tình trạng kinh khủng kia. Bây giờ con đã hiểu rồi nên CỐ GẮNG
GIÚP ĐỠ những người còn đang u mê để họ có thể tỉnh thức... Con làm việc ngày
đêm không biết mệt và cũng không cần phải ăn uống nữa...
Bà Kunz giật mình kêu lớn:
- Sao, con không ăn uống gì ư?
Cậu Jo cười lớn:
- Ở bên nầy ĐÂU CÓ AI CẦN PHẢI ĂN UỐNG! Người ta
sống bằng tâm thức chứ đâu bằng thân xác vật chất nữa.
Nầy mẹ, mẹ hay làm nhiều đồ ăn quá, mẹ nên hạn
chế bớt việc nấu nướng đi. Hiện nay sức khoẻ của cha mẹ không còn như xưa, mẹ
không nên quá cực nhọc trong việc nấu nướng, ăn uống. Phần con thì không nghĩ
gì đến việc ăn uống, thế mà sức khoẻ của con lại hơn xưa, vì ở bên nầy thức ăn
cần thiết là (năng lượng) TÌNH THƯƠNG chứ không phải thứ gì khác. Cha mẹ ơi, lạ
lùng lắm! Con nghiệm được rằng tình thương là sự cho ra chứ không phải nhận
vào. Càng cho ra bao nhiêu con càng cảm thấy thoải mái, sung sướng, mạnh khoẻ
bấy nhiêu. Đó cũng là ĐẶC ĐIỂM CỦA CÕI SÁNG bên nầy: Càng yêu thương bao nhiêu,
người ta càng nhẹ nhõm, sung sướng, thoải mái, bình an bấy nhiêu.
Hiện nay con đang cố gắng giúp đỡ những vong
linh vừa từ trần đang đau khổ. Con tự nhủ: Thế nào họ cũng trải qua tâm trạng
đau khổ, oằn oại, thao thức như con đã trải qua, và họ sẽ sống trong đau khổ
như thế cho đến lúc tỉnh thức. So sánh với hoàn cảnh của con thì nhiều người
còn khổ hơn nhiều, có người đã đau khổ như vậy ĐÃ MẤY TRĂM NĂM RỒI, không thể
nào cảnh tỉnh họ được. Con có cảm giác rằng tâm thức họ bị đè nặng bởi những áp
lực rất lớn, những áp lực kinh khủng mà sức con không thể giúp họ được. Chắc
hẳn họ đã phạm những lỗi lầm ghê gớm lắm. Theo chỗ con biết, họ là những người
khi sống không hề biết yêu thương, không hề biết xúc động, trái tim của họ đã
khô kiệt, chỉ còn những sự thù hận, oán hờn, ích kỷ nên họ phải ở trong những
nỗi đau khổ cùng cực CHO ĐẾN KHI NÀO những động năng thù oán đó tiêu tan bớt
đi.
Phần con rất may mắn là chỉ đau khổ trong vòng
mấy tháng thôi, vì mê muội không chịu chấp nhận sự thật rằng mình đã chết, cứ u
mê thiết tha với những vọng tưởng về vật chất mà không biết đời sống Ở ĐÂU CŨNG
CÓ cái hay, cái đẹp của nó. Nếu biết như vậy con đâu để mình bị ngộp nước lâu
đến thế. Những điều con nói đây là sự thật mà con đã nghiệm được, cha mẹ nên
trình bày cho mọi người biết để họ tránh cái hoàn cảnh đau khổ mà con đã trải
qua.
(…..)
Bác sĩ Franz lên tiếng:
- Nầy Jo, cháu có thể cho bác biết thêm về cõi
giới bên đó không?
- Được chứ. Cõi bên nầy không phải là nơi mà
người đi qua sẽ không bao giờ trở lại, hoặc là nơi tối tăm, ghê rợn, hễ ai rơi
vào đó là mất hút, mà trái lại, đó là MỘT CÕI SÁNG RẤT LINH HOẠT. Có lẽ nó còn
linh hoạt hơn cả những đô thị sống động nhất của cõi trần, nhưng sự linh hoạt ở
đây không phải là sự ồn ào, náo nhiệt mà là một sự linh hoạt rất nhẹ nhàng,
bình an, thoải mái để người ta có thể cảm nhận được một tình yêu thương tuyệt
đối, một ân phước dồi dào không bút mực nào có thể tả xiết. Trong sự bình an
nầy, người ta bắt đầu hồi tưởng nhiều việc đã xảy ra để rút tỉa kinh nghiệm và
học hỏi, ĐỂ CHUẨN BỊ CHO MỘT ĐỜI SỐNG MAI SAU.
- Cháu nói sao? Còn có một đời sống nữa hay sao?
- Đúng thế. Còn CÓ NHIỀU CÕI GIỚI NỮA, chứ không
phải chỉ có một cõi bên nầy mà thôi. Hiện nay việc học hỏi của cháu còn giới
hạn nên cháu không biết rõ những cảnh giới khác ra sao, nhưng cháu được biết sẽ
có lúc cháu SẼ TRỞ LẠI CÕI TRẦN, dĩ nhiên dưới một hình thức nào đó. Theo sự
biết của cháu thì việc học hỏi ở bên nầy có tính cách lý thuyết, còn phải mang
ra thực hành, và nhờ kinh nghiệm thực hành mà người ta mới thực sự học hỏi. Vì
người ta chỉ có thể KINH NGHIỆM THỰC HÀNH được qua đời sống ở cõi trần mà thôi,
nên trước sau gì các vong linh cũng đều tái sinh trở lại.
Cậu Jo quay qua cha mẹ:
- Thưa cha mẹ, con đã nói tất những gì con biết
về cõi giới bên nầy. Con xin cha mẹ cứ yên chí, đừng quá lo lắng gì nhiều cho
con và cũng đừng gọi con trở lại nữa... Sự liên lạc nầy không cần thiết, GÂY
QUYẾN LUYẾN và làm trở ngại việc học hỏi của con. Công việc của con hiện nay
rất bận rộn. Con xin cảm ơn cha mẹ và mọi người đã CẦU NGUYỆN cho con, chính
nhờ việc nầy mà thần trí con sáng suốt và được thức tỉnh. Việc cầu nguyện chân
thành cho người chết có thể giúp đỡ cho họ rất nhiều, đây là một điều hết sức
QUAN TRỌNG mà mọi người cần nên biết.
Khi từ giã cõi trần, người ta không thể mang
theo tiền tài, sự nghiệp, danh vọng mà CHỈ CÓ THỂ mang được lòng YÊU THƯƠNG và
sự HIỂU BIẾT mà thôi. Chính lòng yêu thương là mãnh lực duy nhất có thể vượt
qua không gian, thời gian và tồn tại với người đó mãi mãi, nó cũng là yếu tố
quan trọng nhất giúp người ta tiến hoá, phát triển ở cõi giới bên nầy. Người ta
có thể chuẩn bị cho cuộc hành trình nầy với hành trang quý báu và độc nhất là
sự yêu thương mà thôi.
Những điều con nói ra hôm nay cần được trình bày
CHO MỌI NGƯỜI BIẾT RÕ, đó cũng là lý do ông Piquet viết thư riêng cho cha để
báo trước. Dĩ nhiên tin hay không là vấn đề riêng của mỗi người, điều nầy không
quan trọng; nhưng SỰ HIỂU BIẾT về cõi sáng, về các áp lực vật chất, sẽ là một
HẠT GIỐNG TỐT gieo vào tâm thức người đó, và rồi trong giờ phút khổ sở lúc lìa
đời, người ta SẼ NHỚ LẠI. Con xin kính chào tất cả, chúc cha mẹ và mọi người
luôn luôn được bình an, hạnh phúc.
----
(Trường hợp của Jo Kunz là một trong hàng trăm
tài liệu đã ghi nhận và soạn thảo thành hồ sơ một cách chi tiết. Một số khoa
học gia cho rằng đây là tài liệu rất quý giá về cõi giới bên kia cửa tử cần
phải được nghiên cứu rộng rãi hơn. Một số khác chưa chịu chấp nhận các hiện
tượng nầy vì tính cách “mơ hồ khó có thể phối kiểm qua các định luật khoa học
thực nghiệm”. Do đó các nhà khoa học vẫn còn bàn cãi sôi nổi, chưa ai chịu nhường
ai, nhưng đó là việc của họ. Còn về phần chúng ta? Phải chăng chúng ta vẫn chờ
đợi cho đến khi những khoa học gia hay giới chức có thẩm quyền chấp nhận thì
mới chịu tin?
Theo những tài liệu viết về cõi giới bên kia cửa
tử như cuốn Tử thư Ai Cập và Tử thư Tây Tạng thì những người chết trẻ, chết bất
đắc kỳ tử, nghĩa là chết trong lúc bất cập, chưa chuẩn bị, thường bị những áp
lực rất nặng của vật chất nên khó siêu thoát. Người chết trẻ giống như quả non
chín héo. Trong một quả non chín héo, người ta khó có thể tách rời cái hột ra
khỏi cái trái. Ở một người chết trẻ, vong linh cũng khó có thể thoát ra khỏi áp
lực của vật chất, của các dục vọng, thèm khát của xác thịt. Các vong linh nầy
không muốn lìa bỏ cõi trần, không muốn rời bỏ thể xác đang tan rã, nên đau khổ
rất nhiều. Hầu hết các tôn giáo đều dạy rằng khi có người sắp từ trần cần phải
tụng kinh cầu nguyện. Sau khi họ qua đời cũng cần cầu nguyện tiếp tục trong một
thời gian. Mặc dù đây là việc nên làm, cần làm và thường được làm, nhưng nếu
chờ đợi đến khi chết rồi mới lo cầu nguyện thì có lẽ đã quá trễ chăng?
Cuốn Tử thư Tây Tạng khuyên người ta CẦN CHUẨN
BỊ càng sớm càng tốt. Nếu có những ham muốn vật chất thì phải biết HẠN CHẾ lần
hồi các dục vọng nầy, bằng cách thay thế nó với những thú vui trí thức, nghệ
thuật có tính cách HƯỚNG THƯỢNG. Chương thứ sáu của cuốn Tử thư đã ghi rõ:
“Muốn được HỮU DỤNG ở cõi trần và THOẢI MÁI ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải
biết làm chủ các dục vọng vật chất, nghĩa là tránh các thú vui tửu sắc, tránh
sự tha thiết với tài sản, sự nghiệp, không nên chạy theo tiền tài, danh vọng vì
đó là những vật vô thường, nay còn mai mất. Khi nhắm mắt từ bỏ cõi trần, người
ta không thể mang nó theo được mà còn bị nó tạo những áp lực khiến cho thần trí
hoang mang, u mê không sáng suốt, dễ bị đoạ lạc vào cảnh giới ngạ quỷ hay súc
sanh”. Hơn lúc nào hết, sự hiểu biết về cõi giới bên kia cửa tử là một đề tài
cần được nghiên cứu rộng rãi để chuẩn bị cho mọi người, vì trước sau ai cũng
qua bên đó. Tại sao trước khi đi du lịch một nơi nào, người ta đã thu xếp hành
lý cẩn thận, nhưng lại cố tình phủ nhận không chịu chuẩn bị, bỏ qua một nơi
chốn mà trước sau ai cũng phải đến?).
-------------------------------
THAM KHẢO THÊM:
* Deepak Chopra, tiến sĩ y học-nhà nghiên cứu
tâm linh, được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng
của thế kỉ XX; ông viết trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh
(một tác phẩm rất nổi tiếng; dịch giả: Trần Quang Hưng): “Vũ trụ mà tôi và bạn
thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh
và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số nào đó. Đâu đó trong
thời-không, có những bình diện khác nhau đồng thời tồn tại”. Ở một chỗ khác ông
nói rằng, cái mà Einstein gọi là “trường tiềm năng” làm tăng các sự kiện không
gian-thời gian, cái đó nhiều tôn giáo gọi là linh hồn.
* Erơnơ Munđasép, giáo sư tiến sĩ y học-nhà bác
học tên tuổi quốc tế, viết trong Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu (dịch giả: Hoàng
Giang): “Tôi tuyệt đối tin rằng sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra
bằng cách hồn cô đặc dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện
do những phân tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những cơ thể sống,
không vững vàng, xét cả trên quan niệm tôn giáo lẫn quan niệm vật lí học và hoá
học hiện đại.”
* Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học
hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương
với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ
chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại một nền văn minh mới”. (Báo Giác
Ngộ số 15/1991).
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của
vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích
cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; nxb
Văn Nghệ, 2007; Thuvienhoasen org-bản có bổ sung).
--------------
THAM KHẢO THÊM:
* Phát biểu của Giáo sư tiến sĩ Đoàn Xuân Mượu
(người đã kinh qua các chức vụ: Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ TƯ, Viện
trưởng Viện Pasteur Đà Lạt, Viện trưởng Viện Văcxin Quốc gia, đại diện y tế
Việt Nam trong Ban Thư ký Hội đồng Tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV) tại
Liên Xô, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Chữ thập đỏ Việt Nam):
“ 3.000 năm qua, chúng ta tìm hiểu vũ trụ nhiều hơn tìm hiểu chính
mình. Do đó, vốn hiểu biết về thế giới tự nhiên lớn hơn hiểu biết chính bản
thân, kể cả nguồn gốc chính mình và những khả năng đặc biệt của con người.
Trước đây, khoa học chính thống theo mô thức thực chứng duy lý,
dựa trên nền tảng vật lý cổ điển của Newton không giải thích được các hiện
tượng đặc biệt này. Nó không công nhận thế giới siêu hình và cho rằng nguyên tử
là nguyên tố bé nhất.
Đến đầu thế kỷ XX xuất hiện mầm mống thuyết tương đối của
Enstein thuyết này nói rằng, ngoài nguyên tử là phần tử nhỏ nhất còn có sóng và
hạt. Thuyết lượng tử từ đó cũng lên ngôi.
Vì vậy, về phương diện xã hội nếu quảng đại quần chúng hiểu biết
cơ sở khoa học của sự huyền bí thì sẽ không còn chỗ nương thân cho mê tín dị
đoan đang lan tràn rộng rãi như hiện nay. Huyền bí không mâu thuẫn với tự
nhiên, chỉ mâu thuẫn với sự hiểu biết của con người về quy luật tự nhiên.
(…..) Mọi sinh vật được tạo hoá sinh ra không phải một cách tình
cờ, mà đều có ý định, có mục đích do “Ý thức vũ trụ”. Ý thức có trước, kế hoạch
sáng thế có sau, tất cả đều bắt nguồn từ năng lượng. Con người phải do năng
lượng sinh ra, bắt đầu từ năng lượng lỏng, năng lượng đặc và thành hình hài con
người ngày nay.
Thực tế, bằng phương pháp phóng xạ xương người ở Nam Mỹ cách đây
hơn 3 triệu năm, phóng xạ xương của loài linh trưởng sau khi tìm kiếm đều không
chứng minh được nguồn gốc con người từ linh trưởng. Từ xa xưa xương bàn tay con
người đã có hoạt động khôn khéo rồi. Thế giới nhiều nơi đã công nhận con người
là sinh vật do vũ trụ sinh ra, con người là hình chiếu của vũ trụ.
(…..) Con người gồm 7 phần gồm
thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có
thể xác là hữu hình, được y học chính thống giảng dạy (đây là năng lượng đặc),
6 phần còn lại có độ đặc khác nhau. Năng lượng càng loãng càng nghiêng dần về
phía linh cảm (năng lượng chưa phải tế vi). Khi sống, phần năng lượng đặc vẫn
còn nhưng khi mất đi thì phần năng lượng đặc mất, các phần năng lượng khác vẫn
tồn tại.
(…..) Các nhà y học chính thống vốn chữa bệnh cho thân thể vật lý. Tuy
nhiên, còn có những dạng bệnh do năng lượng sóng đứng gây nên, chúng đòi hỏi
phải có cách tiếp cận khác gọi là y học đa chiều, trong chẩn đoán,
tự chẩn đoán, điều trị, tự điều trị, khác với y học chính thống.
Trong thực tế chắc có những người mạo danh ngoại cảm cần phải
ngăn cản. Bộ sách của tôi là sự cố gắng lý giải những điều chưa biết. Cái biết
vốn dĩ hữu hạn, cái chưa biết là cái vô hạn. Tuy nhiên, không phải vì chưa biết
mà phủ nhận tất cả một cách hồ đồ.”
(https //dantri com
vn/xa-hoi/ve-tam-linh-neu-chua-biet-xin-dung-phu-nhan-1285923006.htm)
---
* “(Thầy Đa-ram nói) Năng lượng linh hồn là năng lượng ở ngoài electron và
ngoài proton. Nhưng tâm năng mạnh mẽ vô cùng, nó có khả năng tác động lên lực
hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực
và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có
thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên thiên nhiên. Bởi
vậy, cùng với xung đột và chiến tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi
thiên thạch...”. (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep – nhà bác học, giáo
sư tiến sĩ y học; dịch giả: Hoàng Giang).
---
* Phát biểu của GS.VS Đào Vọng Đức, nguyên viện trưởng Viện Vật lý, nguyên giám đốc Trung
tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người về Khoa học và Tâm linh:
“Ƭạo hóa đã ban cho vũ trụ chúng ta các dạng
tương tác một cách tối ưu Ƅao gồm tương tác mạnh, tương tác yếu, tương tác điện
từ và tương tác hấρ dẫn. Đó là các loại tương tác cơ Ƅản nhất tạo nên bức tranh
của cả vũ trụ chúng tɑ.
Ɓất kỳ một loại tương tác nào, một hiện tượng
nào dù ρhức tạp đến mấy, từ vi mô đến vĩ mô cũng đều Ƅắt nguồn từ các loại
tương tác đó. Một hướng nghiên cứu có tính thời sự nhất hiện nɑy là xây dựng Lí thuyết
thống nhất, tức là
tìm một cơ cấu thiết kế chung gắn kết các loại tương tác với nhɑu trên cùng một
nền tảng, và phương hướng được xem là có nhiều triển vọng nhất để xâу dựng Lí
thuyết thống nhất nói trên chính là Lí thuуết Dây.
Điều đặc biệt là trong lí thuуết Dây nhất thiết
phải có các trường "Vong". Ϲác trường "Vong" này giữ vɑi
trò then chốt trong cơ cấu của lí thuуết, chi phối các cơ chế tương tác nhưng
không hề xuất hiện một cách tường minh trong thực tế.”
(http //kienthuckhoahoc
org/kham-pha-kh/khoa-hoc-ly-giai-tam-linh-nhu-the-nao-ni3?fbclid=IwAR1wyGrtmvy6ibMEFTbevKBrz37uZCBiOdZXu8imBqeLQ6S3NTPl9vmy7L0)
(Trường “vong” còn được gọi là hồn hay linh
hồn; một số nhà khoa học gọi là “trường ý thức”).