“Ai Cũng Có Một Câu
Kiều Để Nhớ”
của Hùng Vĩnh Phước
- Diên Nghị
Những lúc buồn ngồi đọc lại truyện Kiều
Mới cảm được nỗi đau người đi trước
Cuộc sống từ lâu vốn nhiều mất mát
Khi giận lòng chẳng hiểu được nhân gian
Mở Kiều đọc để thấy mình trong đó
Thấy nhẹ nhõm trước trăm nghìn tâm sự
Có người cảm thông đã nói hộ mình
Nhớ lần đầu gặp gỡ một bóng hình
Chia tay rồi sao còn vương vấn mãi
Ngày xưa Kiều đã có lần tự hỏi
Duyên trăm năm biết ai hẹn ai chờ (a)
Nhìn cuộc đổi đời* giống một giấc mơ
Trăm cảnh ngộ với trăm nghìn oan nghiệt
Giành giật bon chen… làm sao nói hết
Rặt một loài “giá áo túi cơm” thôi (b)
Gian nan qua bao “sóng vỗ bèo trôi”
Khóc vận nước trầm luân trong khổ ải
Đêm nằm ngủ giật mình thương Từ Hải
Thấy lơ lơ láo láo phận dân tù (c)
Từ lúc đành bỏ hết để xa quê
Là lúc biết lòng sẽ nhiều nhức nhối
Câu Kiều xưa vẫn còn âm vang mãi
Khóc Tố Như và cũng để khóc mình
“Sống đoạ thác đày” trong cuộc tử sinh (d)
Ai cũng có một câu Kiều để nhớ
Ngày đứng nhìn đám cô hồn lớ ngớ
Để đêm về mong mơ thấy Nguyễn Du.
Hùng Vĩnh Phước
February 12, 2020
February 12, 2020
____
Từ các câu Kiều của Nguyễn Du:
a. Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
b. Những loài giá áo túi cơm thiếu gì
c. Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!
d. Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
*30/4/1975
Tố Như cũng đã lắm lần băn khoăn tự vấn:
Bất
tri tam bách dư niên hậu
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như!
Chẳng biết ba trăm năm sau, có ai khóc nhớ nhà
thơ khi đọc truyện Kiều?
300 năm
chưa đến, đúng 200 năm sau, đất nước dân tộc Việt Nam trải qua thịnh suy
thử thách, Truyện Kiều vẫn sống động, được tôn vinh, vẫn là tác phẩm văn học giá
trị được nghiên cứu, tìm học, thảo luận, phê bình, đối thoại dưới nhiều quan điểm
xã hội, tâm lý, nghệ thuật, đạo đức và sinh mệnh con người… tạo bằng nhiều tác
phẩm lưu giữ trong văn học sử, biến Truyện Kiều thành một bộ môn mới--Kiều học.
Cũng đúng vào 200 năm ngày sinh của Tố Như
(1765 – 1965), Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới đã vinh danh thi hào Nguyễn Du là
danh nhân văn hóa thế giới.
Tác phẩm Truyện Kiều được in ấn văn bản chữ Nôm,
quốc ngữ, còn chuyển dịch ra Anh, Pháp ngữ và nhiều ngôn ngữ khác khắp thế giới.
Truyện Kiếu được Cơ Quan Văn Hoá, Khoa Học và Giáo Dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
tài trợ xuất bản với tính cách là tác phẩm
tiêu biểu văn học Việt Nam.
Ngày nay, khu lưu niệm tượng đài Nguyễn Du,
mang quốc phục truyền thống, sừng sững cao diệu, thanh nhã vươn bật vòm trời quê
hương Tiên Điền, Hà Tĩnh, vùng mệ địa cỗi cằn, đồng chua nước mặn, mà khí thiêng
sông núi Lam Giang - Hồng Lĩnh đã tác tạo nên bậc tài hoa xuất chúng, rạng danh
văn học sử nước nhà.
Truyện Kiều đã len sâu vào tâm thức quần chúng,
đủ thành phần xã hội trong chừng mực nhất định, sức khơi gợi tái hiện sôi nổi,
thông qua nhiều hình thái thông dụng như vịnh Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, diễn xuất
kịch về Kiều v.v… Ngay cả vua Tự Đức, vị vua hay chữ của triều Nguyễn, cũng đã
bộc lộ đam mê trong hai điều mê (mê ngựa Hậu Bổ, mê nôm Thúy Kiều).
3254 câu lục bát Truyện Kiều mở rộng tầm nhìn
người đọc đương thời cho đến tận hôm nay. Bức tranh phong phú sắc màu, tô vẽ cảnh
và tình phức hợp, cho người đọc một thứ cảm giác tế vi thấm thía dàn dựng qua vật
giới và thẩm thấu sâu tâm giới.
Thế nên, “ai cũng có một câu Kiều để nhớ” là
hiện thực Hùng Vĩnh Phước, thế hệ thơ kế tiếp tại hải ngoại, một lần nữa, cảm hứng
truyện Kiều, trở về với cuộc sống và kiếp người, trải nghiệm chung qua tâm thức
bản thân:
Những
lúc buồn ngồi đọc lại Truyện Kiều
Mới
cảm được nỗi đau người đi trước
Cuộc
sống từ lâu vốn nhiều mất mát
Và
kiếp người là những chặng cô đơn
Lúc buồn đọc lại Truyện Kiều để thấm thía, lắng
đọng, hòa nhập nỗi đau nhân thế, nỗi đau “hồng nhan đa truân”.
Chân tướng của con người đồng nghĩa đau khổ.
Nỗi khổ triền miên ám ảnh con người, vây bọc con người, cả khi con người đang
chớm mầm ước vọng chính đáng.
Đức Phật dạy cuộc đời vốn là bể khổ. Phương
chi khi vừa lọt lòng mẹ, hài nhi cất tiếng khóc chào đời, báo hiệu bể khổ mênh
mông phía trước (Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra – Cung Oán).
Tiếng khóc, giọt nước mắt góp vào bể khổ kiếp
người!
Con người dần lớn dậy theo dòng thời gian, chạm
mặt cuộc đời càng nhận rõ hình thức khổ nạn, có lúc toan chạy trốn khỏi ràng buộc
hiện thể, nhưng càng toan bỏ chạy, càng bị kéo lùi từ bàn tay cưỡng chế áp đặt
ma quái, vô hình!
Qua đó con người thường buồn bã, xa xót, than
vãn rên xiết, kêu la, oán trách bông lông cũng chỉ là phong cách thông thường,
giảm nhẹ cảm giác uất nghẹn để tiếp tục làm người mang trạng thái hoài nghi, bất
an, phức tạp giữa nơi chốn tạm bợ cõi người ta (Trăm năm trong cõi người ta -
Kiều).
Danh nhân Nguyễn Công Trứ hào sảng “chí nam nhi” tỉnh táo với nhân sinh quan lạc quan, yêu đời đã dấn thân bằng tư tưởng
“phải có danh gì với núi sông”, lãng mạn phóng túng với bầu đoàn thệ thiếp, ấm
lạnh đề huề. Giấc mơ cuộc đời hiển hiện như ý nguyện, song tiếc thay, cuối đoạn
trường đời, đã chịu nhìn nhận qua tiếng thở dài đắng cay, chua chát: “Kiếp sau
xin chớ làm người/Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.”
Triết lý sống đồng hành có không, được mất, Hùng
Vĩnh Phước thu nhận rõ hơn, mất mát nhiều hơn, và kiếp người dài được bao lăm
giữa đoạn trường cô đơn, cô độc. Nghịch cảnh, nghịch lý nhân gian biến hiện, chìm
nổi từng ngày từng lúc. Con người không còn lạ lẫm lẽ vô thường mà vẫn tư lự thái
độ sống, đứng giữa ranh giới kẻ bàng quang, giận mình không hiểu được chính mình.
Truyện Kiều đã khai mở, trình bày, diễn tả gắn
liền thời đại, xã hội, con người cả hồn lẫn xác, đầy ắp ý nghĩa nhân sinh, giúp
tìm kiếm và gặp gỡ mình trong chừng mực.
Khi
giận lòng chẳng hiểu được nhân gian
Mở
Kiều đọc để thấy mình trong đó
Gặp, thấy chính mình, đã thỏa ước phần nào, tựa
hồ được uống liều thuốc giảm đau đúng lúc, khoan khoái, nhẹ nhõm, dung thông.
Thấy
nhẹ nhõm trước trăm nghìn tâm sự
Có
người cảm thông đã nói hộ mình
Ví như tình yêu. Mối tình đầu của Kiều-Kim Trọng,
trai tài gái sắc, ngỡ duyên khởi đúng thời, trên hành trình gắn bó. Dưới trăng
khuya, lời thề thốt được khắc ghi “vầng trăng vằng vặc giữa trời/đinh ninh hai
miệng một lời song song” (Kiều). Thế mà, chỉ một mảy bụi hồng trần rủi ro, do kẻ
bán tơ xuất xướng đến chính quyền liên quan gia đình Vương viên ngoại, cuối cùng
Kiều phải hy sinh cứu cha vì hiếu mà đành phụ tình chung! Giữa đời sống, chuyện
khổ đau tình yêu nam nữ chẳng bao giờ thiếu. Nói đến tình đồng nghĩa với oan
nghiệt (Tu là cõi phúc, tình là dây oan - Kiều). Biết bao nhiêu cặp tình nhân
thời nay tan vỡ, lỡ làng qua hoàn cảnh riêng biệt; những cuộc tình sớm kết sớm
tàn, hằn sâu nỗi khổ cho cả hai bên đều chịu đựng.
Kiều trải qua những ưu tư, hoài nghi và tự hỏi.
Duyên từ đâu đến? Duyện-tình, hai mặt một niệm đồ. Duyên khởi, duyên chưa hòa
thì tình cũng mong manh, như làn gió mảng mây…
Ngày
xưa Kiều đã có lần tự hỏi
Duyên
trăm năm biết ai hẹn ai chờ
Ngẫm nghĩ cho cùng, con người đang buộc chặt
vào vòng cộng nghiệp, cùng khổ đau mà chưa nhận rõ. Luận về duyên, sách xưa ghi
“Hữu duyện thiên lý năng tương ngộ/Vô duyên đối diện bất tương phùng.”
Cái duyên không thể kiếm tìm, trao đổi, mời gọi.
Tự đến, tự hòa và tự chấp vào một bản thể người, như một cơ hội, một tình cờ, một
phúc đức trong cuộc sống. Cứ đợi, cứ chờ… duyên vẫn không hiện hình đoái tưởng.
Khởi tùy duyên là thế!
Kiều đang sống dưới một chế độ phong kiến.
Gia Tĩnh triều Minh, thời kỳ mà Tố Như mô tả là “bốn phương phẳng lặng hai kinh
vững vàng”, thời tạm cho là thanh bình, xã hội an ổn. Gia đình gặp họa không ngờ,
do tên bán tơ vu cáo. Tác nhân gây tội ác hại người vào những thời khắc rối ren
giữa xã hội, khi tâm lý quần chúng hy vọng vào công lý cửa quyền soi sáng sự việc.
Kẻ yếu thế trông đợi lẽ phải, sự thật thì sai nha tương kế tựu kế đã trắng trợn
đòi hỏi “có ba trăm lạng việc này mới xong” (Kiều). Bản chất tham tiền cố hữu đã
bộc lộ, cùng lúc vơ vét của cải, lục soát tư gia (Đồ tế nhuyễn của riêng tây/Sạch
sành sanh vét cho đầy túi tham - Kiều).
Giá trị đồng tiền, lòng tham con người muôn đời
vẫn nguyên tính. Vì đồng tiền, người hại người, như triết gia hiện đại Jean P.
Sartre đã ví: “Người là địa ngục của người.”
Nỗi khốn đọa liên quan thân phận người, hoặc
nặng nhẹ tựa hồ nhu cầu đời sống trước đổi thay của không gian, thời gian và
khi phải đối chiếu với cuộc đổi đời trên quê hương miền Nam, ngày 30 tháng 4 năm
1975.
Chế độ tự do miền Nam suy sụp, thất trận trước
sức thôn tính của đảng Cộng Sản miền Bắc—nhanh nhẹn, rõ ràng như một giấc mơ.
“Giấc Nam Kha khéo bất bình/Bừng con mắt dậy thấy mình tay không” (Cung Oán).
Chỉ qua đêm, sáng ngày 1 tháng 5, mình không còn là mình nữa!
Cuộc đổi đời toàn diện, trăm nghìn cảnh ngộ lão
đão, cuồng quay.
Nhìn
cuộc đổi đời giống một giấc mơ
Trăm
cảnh ngộ với trăm nghìn oan nghiệt
Nhà nhà hoang hóa, người người tháo chạy, tìm
đường thoát vòng vây Cộng sản. Thành phần quân, cán, chính miền Nam lần lượt vào
trại tù. Quần chúng còn lại hoang mang, hãi sợ, làm con tin chế độ mới.
Con người hứng chịu trăm nghìn khốn khổ đổi đời,
chới với, bấp bênh giữa quê hương, ngày hôm qua còn là thiên đường, hạnh lạc,
giờ này thành địa ngục trần gian!
Kẻ gọi là thắng cuộc, ngây ngô, trơ trẽn, không
hiểu vì sao lại thắng. Kẻ bại đắng cay, sững sờ, không biết lý do!
Bi, haì kịch thắng bại từ đó diễn trình giữa
sân khấu miền Nam khá trung thực, biểu hiện man rợ, tham lam, tàn độc của cái gọi
là “đỉnh cao trí tuệ xã hội chủ nghĩa”!
Giành
giật bon chen làm sao nói hết
Rặt
một loài “giá áo túi cơm” thôi.
Người chấp nhận hiểm nguy đi tìm lẽ sống, sau
thử thách gian nan giữa dặm trường sóng gió, may mắn đến được nơi mơ ước, thoát
vòng vây thù nghịch, cũng chỉ vừa qua được một đoạn khổ trước mặt. Khổ vẫn bám
víu con người. Đất tạm dung, hít thở không khí tự do, hưng phấn niềm tin, thân
xác tỵ nạn vẫn đằng đẵng phấn đấu để được tồn tại thường tình. Áo cơm, nơi ở,
phương tiện, việc làm cùng muôn vàn ràng buộc hội nhập vào xã hội mới cũng ngổn
ngang, phức tạp, lao đao!
Ký ức thoáng buồn tràn lấn, gợi dậy tình yêu
cố quận, quê nhà, con người ở lại lênh đênh giữa bể trầm luân.
Gian
nan qua bao “sóng vỗ bèo trôi”
Khóc
vận nước trầm luân trong khổ ải
Bóng dáng anh hùng gãy súng Tháng Tư, bao thế
hệ trẻ miền Nam đứng lên, ngã xuống, góp máu xương bảo vệ từng tấc đất núi sông,
phải cam chịu thân tù đày, bại trận, thất thểu, đói khát, đọa đày trong bao nhiêu
trại giam mọc lên khắp ba miền Nam Trung Bắc.
Đêm
nằm ngủ giật mình thương Từ Hải
Thấy
lơ lơ láo láo phận dân tù
Dời quê hương từ đó đã 45 năm. Bỏ lại hết đằng
sau, chạy khỏi với hai bàn tay trắng.
Thân phận người thấm thía đời người! Đã trải
qua xây dựng nên đời, để chỉ qua đêm tan nhà nát đất. Dở sống, dở chết dưới chế
độ độc đảng, độc tài, người lìa nơi chốn cũ ra đi, nhức nhối xót xa trên hành
trình “khổ đế,” người ở lại nghiệt ngã, khổ nạn lưu đày ngay giữa quê hương.
Kiều thuở xưa hồng nhan đa truân, qua mười lăm
năm lưu lạc, nổi trôi, cuối cùng đoàn viên, hoà hợp hiếu tình sở nguyện.
Dòng thời gian cứ lướt thướt chảy trôi, truyện
Kiều càng âm vang, lan tỏa rộng, thấm đậm nước mắt con người. Khóc cho nỗi khổ
hằng cửu, đồng thời cũng dành cho ngòi bút, nguồn lực sâu đầy của Nguyễn Du, nội
hàm chủ yếu tình yêu muôn thuở, con người, quê hương, tình tự dân tộc.
Câu
Kiều xưa vẫn còn âm vang mãi
Khóc
Tố Như và cũng để khóc mình
Không thiếu những câu, những đoạn trong truyện
Kiều đủ chuyên chở ý nghĩa, biểu hiện, phóng chiếu, ẩn dụ, phúng dụ, hoán dụ, cảnh
tình hòa nhập, đan quyện, khơi gợi cảm giác yêu thương, giận ghét nơi người đọc
. Tâm giới, vật giới trong truyện khá mới mẽ, sắc diện sinh động, làm tăng triển
cảm hứng, qua đó, người đọc thuộc lòng từng câu, từng đoạn truyện Kiều trở thành
phổ biến.
“Ai cũng có một câu Kiều để nhớ.” Nhận định này
không chủ quan, thô thiển. Hùng Vĩnh Phước thu nạp, trải nghiệm truyện Kiều dưới
góc độ cảm hứng văn học, suy nghiệm, phân giải, ảnh hưởng lâu dài đến tương
lai.
Từng gánh chịu thử thách trong cuộc bể dâu lịch
sử, vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân giữa ranh giới mất còn, đã bao lần nương
tựa vào những câu Kiều đoạn Kiều, tìm an ủi, sẻ chia, thông cảm, cả hy vọng trước
những bế tắc, trớ trêu.
“Sống
đọa, thác đày” trong cuộc tử sinh
Ai
cũng có một câu Kiều để nhớ
Từ lâu lắm, câu Kiều đã ở lại trong vùng cảm
thụ của người đọc đủ thành phần, giai cấp xã hội, theo dòng suy thịnh của những
triều đai trên quê hương. Nay, hơn 200 năm sau, những câu Kiều vẫn sáng lòe tươi
mát của thời đại mới. Những câu Kiều đã được nhắc đến, ví von bằng thanh âm ngoại
xứ.
Tổng thống thứ 42 Hoa Kỳ, Bill Clinton, năm
2008, đã đến thăm đất nước Việt Nam. Ông Clinton bãi bỏ cấm vận, quan hệ bình
thường với Việt Nam. Trang sử mới được bắt đầu giữa hai quốc gia “cựu thù”
trong cuộc chiến ý thức hệ Nam Bắc trước 1975.
Như một hiện tượng sáng trong, dân chúng thủ đô
Hà Nội được tin ông Clinton đến, đã ào ạt ra đường chờ đợi đón tiếp suốt các lộ
trình ông sẽ đi qua từ lúc 2 giờ sáng. Sau cuộc đón tiếp trọng thể dành cho vị
nguyên thủ Hoa Kỳ, ông Clinton đã nói chuyện với hàng ngàn nam nữ sinh viên thủ
đô tại nhà hát lớn. Ông dẫn hai câu Kiều: “Rằng trăm năm cũng từ đây/Của tin gọi
một chút này làm ghi.”
Rõ ràng, câu trích dẫn đã phản ảnh đúng thời điểm,
hoàn cảnh và tâm lý thời sự. Ông gởi thông điệp cho tuổi trẻ Việt Nam niềm tin cậy đáng tin và đáng
ghi nhớ.
Hơn thập kỷ sau, năm 2014, tổng thống thứ 44
Hoa Kỳ, Barrack Obama, cũng đã tiếp lãnh đạo Việt Nam đến thăm Tòa Bạch Ốc.
Trong trao đổi chuyện trò. Ông Obama cũng đã mượn hai câu trong truyện Kiều “Trời
còn để có hôm nay/Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” gợi ý khéo léo, duyên dáng
với phía đối diện về những tương quan hợp tác và tình hình thuận thảo trước mắt.
Những câu Kiều đã sống tràn đầy, không chỉ
trong dân gian đất mẹ, câu Kiều ngày nay và mai sau sẽ đồng vọng dài lâu. Câu
Kiều được nhắc lại tại thủ đô Hà Nội, tại Hoa Thịnh Đốn. Những câu lục bát tuyệt
vời của Nguyễn Du đã được dịp thăng hoa, thay vì những giọt lệ mà thuở sinh tiền
Tố Như Nguyễn Du băn khoăn tự vấn!
Diên Nghị
30 Tháng Tư, 2020