- Châu
Thạch
Mạnh Cương |
TRẢ LẠI TA
Trả lại ta chuỗi thời gian
Tuổi thơ êm đẹp mơ màng bướm hoa
Không gian ơi, trả lại ta
Núi sông rừng trãng bao la một vùng
Núi sông rừng trãng bao la một vùng
Trả
ta một khoảng không trung
Trời xanh mây trắng trập trùng sơn khê
Trả ta một bóng trăng thề
Đường xưa lối cũ đi về bên nhau
Trời xanh mây trắng trập trùng sơn khê
Trả ta một bóng trăng thề
Đường xưa lối cũ đi về bên nhau
Trả
ta ân ái buổi đầu
Tình ta mới chớm đẹp màu thương yêu
Trả ta hình dáng yêu kiều
Của người thiếu nữ rất nhiều nhớ thương
Tình ta mới chớm đẹp màu thương yêu
Trả ta hình dáng yêu kiều
Của người thiếu nữ rất nhiều nhớ thương
Trả
ta một thuở quê hương
Mái tranh vách đất ngôi trường xa xa
Xin trả lại hết cho ta
Những gì đã mất đã qua một thời
Mái tranh vách đất ngôi trường xa xa
Xin trả lại hết cho ta
Những gì đã mất đã qua một thời
Trả
ta năm tháng qua rồi
Với bao kỷ niệm một đời không quên.
Với bao kỷ niệm một đời không quên.
Mạnh-Trương
Washington D.C.
Washington D.C.
“Trả Lại Ta”, một bài thơ thật rõ ràng.
Đúng ra không có gì để bàn, vì bài thơ như lời của một người đi đòi nợ, kể ra
thứ tự những thứ mình đòi lại. Bài thơ không hay không dỡ, nhưng nó khiến cho
mỗi người đọc đều cảm nhận được rằng, mình đã mất quá nhiều những điều rất quý
trong cuộc vô thường. Bài thơ làm người đọc cảm thấy hụt hẫng bởi cảm nhận được
rằng, những thứ mình bị mất không bao giờ đòi lại được, vì không biết ai là
người lấy nó đi.
Thật ra thì nhà thơ có gọi "Không
gian ơi, trả lại ta" nhưng không gian cũng là thứ mà nhà thơ bị mất đi chứ
không phải là chủ thể đã lấy đi tất cả quá khứ của đời người. Nếu phải đòi
không gian trả lại thì đòi thời gian đúng hơn, nhưng thời gian cũng là một thứ
vô tình, là công cụ của một thế lực nào đó không lộ diện để cho ta biết đó là
con nợ đã lấy mọi sự của mình.
Vậy câu thơ “Không gian ơi, trả lại ta”
cũng minh chứng cho nỗi đau của Mạnh Trương, vì phải kêu la, tán thán đòi nợ
một cách rất vu vơ, hoặc gọi không gian như gọi người yêu đi biền biệt. Vậy câu
thơ nhấn mạnh nỗi nhớ không gian sống ngày xưa, để đòi ai đó trả lại cho mình,
chớ không nên hiểu rằng không gian là con nợ của nhà thơ.
Những người theo Thiên Chúa cho rằng Đức
Chúa Trời tể trị mọi sự nhưng lại tin rằng Ngài làm cái gì cũng tốt . Vậy thì
làm sao dám đòi Ngài trả lại những thứ mất đi trong cuộc đời mình. Những người
theo Phật Giáo thì tin rằng mọi việc là do nghiệp của mình, mình gây ra nhân
nào ở những kiếp trước thì nhận lại quả nấy ở kiếp nầy. Vậy thì mình đòi mình
sao được.
Hóa ra Phật và Chúa đều nói giống nhau:
“Lỗi tại tôi mọi đường”.
Bởi vì vậy, ta thấy Mạnh Trương chỉ đòi
trả nợ mà không chỉ tên con nợ của mình. Đọc thơ, ta vô tình nên không thấy sự
thâm thúy ở đây. Thật ra, chính sự đòi mà không biết con nợ là ai, gợi trong
tiềm thức ta một nỗi đau cho sự phi lý của đời người, một nỗi trắc ẩn bởi những
ấm ức vì kiếp sống luôn kề bên hố thắm mà ta rất dễ rơi vào đó, một nỗi trắc ẩn
khác bởi những ấm ức vì kiếp sống của ta luôn nhận chịu sự bất công mà không
thế lực nào cứu vớt được.
Đầu tiên Manh Trương đòi lại tuổi thơ
của mình:
Trả
lại ta chuỗi thời gian
Tuỗi thơ êm đẹp mơ màng bướm hoa
Tuỗi thơ êm đẹp mơ màng bướm hoa
Tất nhiên tuổi thơ của ai cũng đẹp , dầu
tuổi thơ ấy trong nghèo hèn và gian khổ. Tất nhiên người đòi chỉ đòi lại những
niềm vui có trong thời ấy như được gần mẹ gần cha, gần anh em và cô bé nhà bên.
Thế rồi từ nỗi trăn trở về tuổi thơ ấy,
Mạnh Trương nhớ đến không gian sống, là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê hương yêu
dấu, hay nơi mình định cư trong buổi thanh xuân:
Không
gian ơi,trả lại ta
Núi sông rừng trãng bao la một vùng
Trả ta một khoảng không trung
Trời xanh mây trắng trập trùng sơn khê
Núi sông rừng trãng bao la một vùng
Trả ta một khoảng không trung
Trời xanh mây trắng trập trùng sơn khê
“Rừng” là nơi
nhiều cây cao bóng mát. ‘Trãng” là
nơi có vùng đất trống với cỏ, với tranh, với rau dại và với những loài bụi cây
lúp xúp khác. Thường trãng ở ven rừng hay ở giữa các rừng. Trãng nhỏ có, rộng
có, đôi khi nằm ven núi ven sông, bao la một vùng thơ mộng dưới ánh trăng.
Đọc bốn câu thơ nầy ta dễ liên nghĩ đến 15 năm chăn dê của nhà thơ Bùi Giáng. Ông đi chăn dê ở miền núi đồi Trung Việt có núi, có sông, có rừng, có trãng, không khác mấy với nơi mà Mạnh Trương đã sống. Bùi Giáng đã làm thơ:
Đọc bốn câu thơ nầy ta dễ liên nghĩ đến 15 năm chăn dê của nhà thơ Bùi Giáng. Ông đi chăn dê ở miền núi đồi Trung Việt có núi, có sông, có rừng, có trãng, không khác mấy với nơi mà Mạnh Trương đã sống. Bùi Giáng đã làm thơ:
"Đồi
tăm tắp chạy về ôm chân núi.
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh.
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối.
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh.
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối.
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh
Thôi
từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi
từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be".
(Nỗi lòng Tô Vũ)
Vang vang lên đồi núi giọng be be".
(Nỗi lòng Tô Vũ)
Có lẽ nếu Bùi Giáng cũng đòi như Mạnh
Trương thì ông ta sẽ đòi trả lại cả dê, vì thuở ấy ông nuôi dê bởi yêu mến dê
chớ không phải để ăn hay để bán.
Những câu thơ kế tiếp, Mạnh Trương đòi
lại tình yêu:
Trả
ta một bóng trăng thề
Đường xưa lối cũ đi về bên nhau
Trả ta ân ái buổi đầu
Tình ta mới chớm đẹp màu thương yêu
Trả ta hình dáng yêu kiều
Của người thiếu nữ rất nhiều nhớ thương
Đường xưa lối cũ đi về bên nhau
Trả ta ân ái buổi đầu
Tình ta mới chớm đẹp màu thương yêu
Trả ta hình dáng yêu kiều
Của người thiếu nữ rất nhiều nhớ thương
Bằng những nét phát họa đơn sơ, Mạnh
Trương đã vẽ ra nhừng bức tranh ước lệ về khung cảnh cuộc tình, về hình dáng
người tình, về những gì rất đẹp và đầy yêu thương trong cuộc tình đó.
Đọc thơ ta hiểu ngay những gì nhà thơ muốn đòi lại. Ta thấy ngay nhà thơ sẽ thất vọng. Thế nhưng, trong tận đáy lòng ta cũng đồng cảm với thơ, cũng thất vọng như thơ. Ngoài ra, những bức tranh ước lệ Mạnh Trương vẽ ra trong thơ cũng gợi nhớ trong tâm hồn ta những ngày tháng yêu đương thắm thiết và thơ mộng của một mùa dĩ vãng xa xôi nào đó.
Đọc thơ ta hiểu ngay những gì nhà thơ muốn đòi lại. Ta thấy ngay nhà thơ sẽ thất vọng. Thế nhưng, trong tận đáy lòng ta cũng đồng cảm với thơ, cũng thất vọng như thơ. Ngoài ra, những bức tranh ước lệ Mạnh Trương vẽ ra trong thơ cũng gợi nhớ trong tâm hồn ta những ngày tháng yêu đương thắm thiết và thơ mộng của một mùa dĩ vãng xa xôi nào đó.
Thơ đâu cần phải kích động bằng những từ
ngữ nặng nề, đâu cần phải dấu đầy những ẩn dụ bên trong mới làm nên sự rung
động. Tất nhiên nhừng điều đó cũng cần nhưng có lúc không cần phải thế. Thơ đôi
khi là những lời rất bình dị, rất trắng nhưng rất trong, thẩm thấu vào lòng ta
tất cả sự tinh hoa của tâm hồn thi sĩ, tưới thắm hồn ta như dòng nước trong
thấm vào rễ, nuôi cho cây xanh tốt.
Và cuối cùng nhà thơ Mạnh Trương đòi hết
lại những gì của mình đã có trong quá khứ, dầu đó chỉ là mái tranh vách đất của
một ngôi trường xa xa:
Trả
ta một thuở quê hương
Mái tranh vách đất ngôi trường xa xa
Xin trả lại hết cho ta
Những gì đã mất đã qua một thời
Trả ta năm tháng qua rồi
Với bao kỹ niệm một đời không quên.
Mái tranh vách đất ngôi trường xa xa
Xin trả lại hết cho ta
Những gì đã mất đã qua một thời
Trả ta năm tháng qua rồi
Với bao kỹ niệm một đời không quên.
Thật là quá lắm, thật là thật thà, chưa
nói là ngây thơ nữa. Mạnh Trương càng lúc càng đòi hỏi thêm, như một người lăn
xả vào con nợ của mình để bấu víu, đề kêu la, để đấu tranh đòi đến tận cùng cái
mình có đã bị lấy mất năm xưa. Những cái bị mất đó là “năm tháng qua rồi/Với bao kỷ niệm một đời không quên”. Tất nhiên
con nợ không trả bao giờ .
Tất nhiên vì con nợ không trả nên những
món nợ đó nằm hoài trong tâm khảm thi nhân, lắng sâu trong đáy con tim, để mỗi
khi tâm hồn dậy lên bão tố, mưa lũ sẽ chảy về lênh láng thành dòng sông ký ức,
trên đó nhấp nhô hàng trăm con thuyền kỷ niệm. Những con thuyền kỷ niệm ấy sẽ
không trôi êm đềm và sẽ bị vùi trong dòng sông ký ức kia hay vùi sâu ngoài biển
khơi trong một hoàng hôn của đời người.
Buồn làm sao và vô lý làm sao!!!
Mạnh Trương là một nhà thơ ẩn dật. Ông
đã xuất bản nhiều tập thơ, hình như chỉ để lưu lại cho riêng mình những kỷ niệm
mà ông đòi không được, hơn là để quảng bá tên tuổi với thi đàn. Vì thế thi hữu
và bạn đọc biết đến ông rất ít. Thơ ông có nhiều bài hay, nhưng hay không làm
cho tôi viết nên cảm nhận của mình. Tôi chỉ viết được cảm nhận khi mà tầng số
của tâm hồn tác giả trong bài thơ nào đó, gặp tầng số của tâm hồn tôi, ở một
thời điểm nhất định mà duyên nợ cho phép được đến cùng nhau.
“Trả Lại Ta” là một bài thơ đòi nợ mà
không có con nợ bao giờ. Ngẫu nhiên tôi lại thành con nợ văn chương của bài thơ
đó. Nó buộc tôi phải viết vì những cảm xúc cũng dậy lên trong lòng tôi, chắc
cũng giống như trong lòng những ai đọc bài thơ nầy.
Chúng ta ai cũng muốn đòi lại tất cả
những gì mình đã mất trong đời, mà chẳng bao giờ đòi lại được, cho nên dễ đồng
cảm với dòng thơ đòi nợ của Mạnh Trương.
Châu
Thạch