Diên Nghị |
Khó có một bản đúc kết
chính xác số lượng tác phẩm văn hóa, văn nghệ của người Việt taị hải ngoại đã ấn
hành, phổ biến hàng năm. Chỉ ước tính dựa vào phương tiện báo chí, truyền
thông, cũng đã thấy được sức viết ngày càng tăng, người viết ngày càng đông với
thể loại đa diện, phong phú.
Khoảng cách địa lý,
nơi quần cư người Việt, tản mác, cách trở, là trở ngại cho vấn đề này. Có nơi tập
trung, có nơi rời tản, người Việt theo điều kiện để thích nghi cuộc sống, khả
dĩ vươn lên, hội nhập vào vùng đất mới.
Đông đảo nhất, lục địa
Hoa kỳ-Tiểu bang California, được mệnh danh là thủ đô tỵ nạn của người Việt- Dù
nhiều, dù ít, nơi nào có sự hiện diện người Việt, nơi đó đã cố gắng kết hợp
thành cộng đồng, người tham gia tuy không đồng bộ, cũng nói lên một điều: sự cần
thiết liên kết, sinh hoạt mọi mặt, tương thân tương trợ để cùng hội nhập hài
hòa vào xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ.
Ba thập kỷ qua, có
nhiều bằng chứng thành công đáng ghi nhận, thế hệ người Việt tỵ nạn thứ,2, thứ
3 đã hăm hở tiến tói với những bước đi khỏe mạnh, tự tin.
Thành đạt học vấn, học
vị, kỹ thuật, nghề nghiệp chuyên môn với số lương cao, thương mại, dịch vụ phát
triển, đóng góp không nhỏ vào vòng sinh hoạt chính của đất nước đã và đang cưu
mang, nuôi dưỡng.. Đại đa số hoạc năng động, hoạc thầm lặng vẫn cùng chung ý
nguyện, đãu tranh cách này, cách khác, để quê hương, đồng bào trong nước được tự
đo thật sự, được đảm bảo quyền con người, và tinh thần dân chủ được thể hiện.
Cũng không qúa ngạc
nhiên, lĩnh vực sáng tác văn hóa, văn nghệ phát triển chiều rộng, và đang chú
trọng đến chiều sâu. Lớp văn nghệ sĩ trước 1975 tại miền Nam, sau cuộc lưu đày
ngay trên quê hương, đã nhận diện rõ mặt con người mac-xít, và chủ nghĩa
mác-xít. Thế hệ kế thừa lớn lên tại hải ngoại cũng đã nồng nhiệt học tập tiếp nối
công việc người đi trước- Truyền thông, báo chí, phát thanh mở rộng trên nhiều
địa bàn cộng đồng Việt.
Truyền thông, bắo
chí, phát thanh không chỉ mang chức năng thông tin thông thường, còn hàm chứa sắc
thái đấu tranh thực sự, hỗ trợ, phát huy tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền.
Bên cạnh những sáng
tác phẩm văn học nghệ thuật, phản ảnh thao thức, bức xức, trăn trở của phận lưu
vong, vẫn nhìn về quá khứ với những ước mơ xây dựng: quê hương một ngày nào sẽ
sáng tươi, dân tộc sẽ hạnh phúc, ấm no, cường quyền sẽ tàn lụi. Con người khốn
khổ trăm chiều không còn mục kích tha hóa, xã hội hỗn độn, tham nhũng, ỏõngười
bóc lột người toàn diệnõõ.
Người Việt hải ngoại
nhìn về quê hương, dân tộc với thiện cảm,đô lương, xót thương- Tình nghĩa đồng
bào maú thịt- Một dân tộc hơn 4 ngàn năm văn hiến không thể thụ động chấp nhận
hiện tại, sống trong vũng lầy bất công, người dân càng cố vươn lên, càng bị dìm
đắm bởi bàn tay vô lương thô bạo. Tại hải ngoại, đa phần sáng tác phẩm văn hóa,
văn nghệ tuy chưa đạt đến mức độ mong đợi, nhưng từ môi trường thuận lợi, không
khí thoáng đạt, tự nó đã mở ra nhiều nhân tố tích cực về cuộc sống, xã hội và
con người, mà bản sắc dân tộc không hề thiếu vắng trong tác phẩm.
Rõ ràng, văn học 20
năm (1955-19750) của miền Nam vẫn xuôi dòng chảy từ ngọn nguồn quê hương ra hải
ngoại, trong đó chuyên trở những lớp người thoát hiểm cuộc lưu đầy- Họ, người cầm
bút, vừa nạn nhân, vừa nhân chứng tiếp tục gửi những thông điệp cho thế giới tự
do và hệ luỵ của đất nước Việt Nam sau tháng Tư đen, và đó, là đóng góp đáng kể
cho văn học hôm nay.
Tản mạn đó đây, có
người thắc mắc và đặt ra nhiều câu hỏi, nhiều luận điểm về văn học hải ngoại
tương lai. Nói đến tương lai, ắt phải đứng giữa hiện tại và không thể không
nhìn về tương quan quá khứ.
Không thể nhắc hiện tại,
phỏng đoán tương lai ma quên lãng quá khứ, quá khứ- điểm khởi đầu cho hiện tại
và ước đoán tương lai.
Hãy viết thật những
gì có trong hiện tại ắt sẽ thấy bóng dáng của tương lai. Không nên bàn luận một
viễn tượng khi chưa nhận chân căn bản của vấn đề- Khi chưa cống hiến trí tuệ
cho sự nghiệp văn học đang theo đuổi, xây dựng cách đây 15 năm, tháng 11-1990,
ông Nguyễn Mạnh Trinh [phỏng vấn ông Võ Phiến, như sau:
“Xin ông nhân tiện suy đoán luôn về
nền văn học Việt Nam hải ngoại trong tương lai, chiều hướng, tầm vóc của nó với
những thời kỳ văn học trước?”
Ông Võ Phiến trả lời:
‘Tương lai văn học hải ngoại tuỳ thuộc vào những biến chuyển chính trị quốc tế
và những thay đổi chính trị trong nước..” VớI câu trả lời nãy ông Võ Phiến minh
bạch là văn học hải ngoại chỉ có thể được xét đến nếu sát nhập vào nền văn học
Việt Nam ở trong nước (Trích Văn Khảo- Trần Bích San trang 154. Cỏ Thơm xuất bản-
tháng 12- 2000).
Những ai có trách nhiệm
xét định về vain học VN hải ngoại? Khỏi phải dài dòng tranh luận, quan điểm của
ông Võ Phiến rất xa lạ với giới sinh hoạt và sáng tác văn hóa, văn nghệ tại
đây. Sát nhập bằng cách nào? Hai dòng văn học thuộc hai ý thức hệ đối kháng như
nước với lửa, như ngày với đêm làm sao có thể hòa nhập được?
Dưới một góc độ
khác,ông Võ Phiến cho rằng ỏõKhông có quốc gia ắt không có lịch sử văn học.õõ Ý
kiến này càng không mấy được đón nhận ở thời đại này. Văn học là tài sản trí tuệ
của con người_ con người sáng tạo_ Con người làm nên lịch sử văn học, quốc gia
chỉ quản lý văn học- Quốc gia hiểu theo nghĩa chính trị_ một tập đoàn quản trị
một quốc gia, dĩ nhiên tập đoàn cầm quyền độc tài, đảng trị, không bao giờ có
chung tư tưởng với tập đoán cầm bút. Hơn nữă, mỗi dân tộc có một nền văn hóa,
văn học riêng dù phôi thai hoặc đã trưởng thành. Một quốc gia gồm nhiều dân tộc
như VN chẳng hạn. Do đó không thể khẳng định không có quốc gia ắt không có lịch
sử văn học được.
Hơn 3 triệu dân Việt,
do hệ lụy lịch sử, đành phải bỏ đất nước tản mác tìm đến đất tự do, nhưng tâm hồn,
ngôn ngữ văn hóa vẫn là văn hóa dân tộc Việt Nam.
Một ngày nào, tiếng
Việt còn được sử dụng, chũ Việt còn được viết, được in thành tác phẩm, nói lên
ước nguyện, tâm tư, búc xúc quê hương, đồng loại thì lịch sử văn học vẫn hiện
diện dù họ ở giựa một quê hương không cùng tiếng nói, không cùng truyền thống ,
tập quán.
Văn học Việt Nam hải
ngoại không chỉ tồn tại trong không gian hải ngoại, nó còn là nỗi ước mơ, chờ đợi
của quần chúng trong nước, họ vẫn nồng nhiệt đón nhận, khích lệ, tán đồng, chỉ
có tập đoàn thống trị trong nước mới cấm đoán ngăn ngừa và tìm mọi cách huỷ diệt.
Họ luôn mặc cảm, bởi
họ đã chủ trương độc tôn, dìm kẹp quần chúng_ văn học trong nước không phát triển
và không thể nào phát triển được khi tự do tư tưởng , tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do tín ngưỡng bị khống chế, tước đoạt.
Do đó, văn nghệ trong
nước ngày nay chỉ là những thành phần thứ yếu. Một số nhà xuất bản đã lén lút
cho in lại những tác phẩm của miền Nam trước tháng 4-1975, chỉ đổi tên và bìa
sách để đánh lạc hướng cơ quan kiểm duyệt. Quần chúng có xu hướng tìm lại những
tác phẩm cũ phần nào phù hợp với sở thích của họ. Trong khi họ chẳng đọc được
gì những Truyện, Thơ giữa thị trường , vẫn vinh danh một quá khứ chẳng lấy gì
vinh quang so với hiện tại khốn khổ, xấu xa, ruỗng nát. Những tác phẩm mang chất
thời sự, phản ảnh mặt trái xã hội, chế độ, không được phổ biến. Khi không được
phổ biến công khai, là lúc gợi trí tò mò của quần chúng cố ý tìm cho được.
Thời đổi mới 1986,
khi ông Nguyễn văn Linh giữ chức Tổng bí thư_ Văn gnhệ sĩ trong nước như vòng
lò so bật dậy sau nhiều năm bị đè nén_ Tư tưởng của họ được phơi bày phần nào.
Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Mạnh Hảo, Đào Hiếu
v..v..nhưng rồi hai chữ ỏõđổi mớiõõ trở thành ỏõmới đổiõõ. Nếu văn học nghệ thuật
trong nước được đổi mới qủa là hạnh phúc cho văn nghệ sĩ, trí thức Việt Nam! Tiếc
thay, chẳng bao giờ thực hiện được.
Hệ thống quản lý tư
tưởng và văn hóa, thực tế vẫn muôn năm ỏõvũ như cẩuõõ. Nguyên tắc bất di bất dịch
là không thừa nhận hoạt động sản xuất tư tưởng-, không thừa nhận đặc tính của
nó như là sở hữu tư nhân, là sản phẩm của lao động cá thể- Chế độ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cho hoạt động sản xuất ra tư tưởng là hoạt động không bình thường,
phổ biến trong xã hội, nơi chỉ là độc quyền và đặc quyền của người có vị trị
cao nhất trong xã hội (Lại Nguyên Ân, Đổi điều kiện sống- là điều kiện sống của
đổi mới)-
Rõ nét trong tham luận
tại hội thảo vể đổi mới lý luận phê bình do hội nhà văn Việt Nam tổ chức 22, 23
tháng 5-1990 tại Hànội. Tác giả Lại Nguyên Ân cũng đã phát biẻu:õõ Phải thừa nhận
rằng hệ thống vận hành của cơ chế cũ ở lĩnh vực tư tưởng, văn hoá đã tỏ ra rất
hiệu qủa.- Đởi sống tư tưỡng, văn hóa tuy nghèo nàn nhưng ổn định- cái ổn định
trong lao tù- Nhiều kiến thức sơ đẳng được đẩy lên thành chân lý tuyệt đối, cuối
cùng. Nhiều định kiến được đảy lên thành bất di bất dịch - Mục tiêu là gìn giữ,
canh gác chứ không phải phát triển!!õõõ
Đến nay văn học vẫn đứng
nguyên tại chỗ, mất sinh khí, lụn bại, mai một dần, qua nhân chứng trong cuộc,
trong lòng xã hội quốc nội nhận xét.
Chủ nghĩa xã hội trên
toàn thế giới hầu như lặng trôi vào quên lãng, từ ngày thành trì cách mạng Nga
tan rã,. Nhưng nếu có nơi nào đó, như tại đất nước Việt Nam còn cố bám víu lấy
cái quá khứ, cái quang vinh nhạt màu chỉ vì đặc quyền đặc lợi hiện hữu, thì văn
hóa, văn nghệ,, tư tưởng văn học, sáng tạo nói chung vẫn bị ỏõcầm tùõõchung
thân, chỉ chờ vận hội mới - giải phóng - Lớp người mang sứ mạng giải phóng,
chính là người cầm bút hải ngoại sẵn sàng hỗ trợ cho người cầm bút tiền phong
trong nước, cùng nhau bước trên lộ trình CHÂN THIỆN MỸ, cống hiến xây dựng sử
Việt Nam.
Diên Nghị