Vài Nét Về Bài "Nguyệt Cầm"
Của Nhà Thơ Xuân Diệu
- Trùng Dương
Của Nhà Thơ Xuân Diệu
- Trùng Dương
Tôi
nhớ không lâu bài viết phân tích khá đầy
đủ về bài thơ này của Thụy Khê mà có lần tôi đã đọc . Tuy nhiên không thể nhớ
trọn vẹn . Nay, tôi cũng viết lại đôi dòng về bài thơ này để nhớ lại một bài
thơ mang tính chất thơ cảm hứng của
Xuân Diệu trong "Tỳ Bà Hành" với
căn bản thi ca.
Nguyệt Cầm
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ hỡi
trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi
đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ
ngân .
Mây vắng trời trong đêm thuỷ tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung
rinh
Vì nghe nương tử trong
câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước
xanh .
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh,
trời ơi ...
Long lanh tiếng sỏi vang
vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc
nhớ người
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn
bề
Sương bạc làm thinh,
khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc, đến
sao Khuê.
Xuân
Diệu
Ngày xưa, tao
nhân mặc khách thường đêm hè, trăng lên
cao, gió quyện vào mát họ thường chơi
đàn dưới trăng . Thường những đôi trai tài , gái sắc , hoặc những bạn bè
thi ca, âm nhạc cùng nhau thưởng
trăng và họ ngâm thơ dạo nhạc .
Nếu
nhìn "Nguyệt cầm" như một cấu trúc tính lược chủ từ và hư từ thì
"nguyệt cầm" là đàn trăng . Đàn trăng mở ra 3 bối cảnh .
1/ Đánh đàn dưới trăng
2/ Nghe đàn dưới trăng
3/ Đàn để ngắm trăng .
" Nguyệt cầm" còn là trăng đàn với ba ý nghĩa khác:
1/ Trăng đánh đàn
2/ Trăng nghe đàn
3/ Trăng ngắm đàn
Khi tao
nhân mặc khách, tài tử giai nhân ngồi dưới trăng thì :
1/ Anh nghe đàn
2/ Anh nghe em đàn
3/ Anh ngắm đàn .
Ngay tựa đề của bài thơ đã vô đề một cách hàm súc . Nguyệt và cầm : Hai
yếu tố tương đồng , ngữ nghĩa , trùng phùng hình ảnh ...Nó cũng là đơn , cũng là
kép vậy .
" Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh "
Dây
cung đàn mập mờ, ý nghĩa là mang tính chất TÌNH và Ý rất thảnh
thơi . Cung đàn, dây đàn chính là dây
tơ .... Cung là Cung hằng, Nguyệt điện và cũng là cung tơ . Trăng nhập vào dây
đàn .. đưa hình ảnh của trăng ( nguyệt)
cầm ( đàn) thơ mộng và dùng dằng ...Mà trăng là ai? . nếu trăng là anh
. Như thế anh nhập vào cung trăng , anh nhập vào cung đàn .. hay anh nhập vào
em? "Trăng và Nguyệt" đều ần
dụ cổ điển .
"Trăng thương, trăng nhớ hỡi
trăng ngần .."
Ôi
thương nhớ trăng , yêu trăng , mơ trăng và tình trăng thật vô ngần .
Tính
cách đối xứng giữa trăng thương , thương
trăng , trăng nhớ và nhớ trăng Hai bên đều thương nhớ lẫn nhau . Chữ kết hợp là "hỡi" nghe rất xa xôi . Nên hai câu thơ này trở nên
một cặp phạm trù song song .
Nếu
trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh , mở ra một bối cảnh gần gủi da diết"
Trăng nhập đàn" " Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm " và mỗi giọt
rơi tàn như lệ ngân .
"Trăng nhập vào dây cung nguyệt
lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần "
Bổng chuyển sang vị trí :
" Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân "
Ở
đây nghe buồn và lặng đã thay thế cho hai động từ , biến trạng thái
tĩnh thành động . Âm thanh tiếng đàn dưới trăng đi sâu vào tâm cảm của con người
thưởng trăng .
" Mây vắng, trời
trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng
rung mình
Vì nghe nương tử trong
câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước
xanh ."
Mang tính
chất cấu trúc như văn xuôi , mà thành
thơ . Xuân Diệu có thể đã mượn trong thơ Pháp để liên kết chặt chẻ câu thơ trên với câu thơ dưới , kết hợp bốn
câu ( enjambement avec rejet) mượn ý thơ để dựng thơ là một ngôn ngữ kết hợp
tài tình của một nhà thơ tài tình .
Mây trắng,
trời trong, đêm thuỷ tinh vẫn là ba hình ảnh độc lập , dị biệt nhưng song song
về nghĩa.
" Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh,
trời ơi ..
Long lanh tiếng sỏi vang
vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương , nhạc
nhớ người ... "
Âm hưởng
và giai điệu trong khúc này ngẫu hứng từ tiếng đàn của người kỹ nữ trong Tỳ
Bà Hành, nhất là " Đàn ghê như nước
, lạnh, trời ơi ....và "long lanh tiếng
sỏi vang vang hận "
" Nước tuôn róc rách chẩy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh lạnh dây mành ngừng đứt "
- Uyết tuyền lưu thuỷ hạ thán
-Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
và chính dư âm của tiếng đàn đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và con người
tương tư nhau : " Trăng nhớ Tầm Dương , nhạc nhớ người , làm cho hiện tại
lưu luyến dĩ vãng , làm cho sự cách biệt giữa không gian và thời gian, nghệ thuật
và tình người ngắn lại, nhưng cũng trải
dài ra biền biệt đến vô cùng ..
" Bốn bề ánh nhạc : biến pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn
bốn bề .
Sương bạc làm
thinh , khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc
đến sao khuya "
Tình huống
" Sương bạc làmm thinh, khuya nín thở
với "chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề " Như để giới thiệu thiên
nhiên,với không gian và thời gian . Những nhân tố này cũng làm thinh và nín thở " cho nên :
"
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuya "
Nội
tâm của con người thi sĩ Xuân Diệu đã lột ý và dùng " Nguyệt cầm để nói
lên tâm trạng cũa những tao nhân , tài tử, giai nhân khi ngồi dưới
trăng thưởng thức đêm trăng vắng lặng , nghe thời gian và không gian xích lại gần
bên nhau . Đôi tài tử , giai nhân tựa kề vai nhau thưởng tiếng nhạc
xa xưa đưa vào lòng những trăn trở
của cuộc tình . Mai sau đời có ra saơ thì một đêm dưới trăng " Nguyệt Cầm" mang đầy kỷ
niệm của cuộc đời về sau vậy .
Trùng Dương
(Cuối đông 2016)