Cảm Nhận "Thềm Xưa, Em Đợi Người Về,"
Thơ Hà Nhữ Uyên
- Châu Thạch
THỀM XƯA, EM ĐỢI NGƯỜI VỀ
Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá bay vèo.
Mắt ngân ngấn- “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà : “…rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt trăng khuya.
Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.
Người gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót rưng rưng.
Em khờ khạo xới lên miền cổ tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?
Hà Nhữ Uyên
Viết thay một người từng ngồi ở cà phê Thềm Xưa.
Tôi có cái bịnh văn chương thật là nặng
nề, đó là khi một bài thơ của ai đó đã nhập tâm mình thì tôi phải viết cảm nghĩ
về nó, nếu chưa viết được thì tôi như nóng sốt trong người, ngày và đêm cứ băn
khoăn như mắc nợ mà chưa trả được. Bởi vậy dầu đọc thơ Hà Nhữ Uyên lần đầu tiên
và chỉ đọc được hai bài thì tôi phải viết cả hai bài. Bài thứ nhất là “Giấc mơ
tôi là sợi khói” và bài thứ hai là bài nầy: Thềm xưa, em đợi người về.
Thú thật, bốn câu thơ ở vế đầu đã làm tôi
sướng nâng và đọc những vế thơ kế tiếp tôi có cảm nhận mình đã thèm , đã thèm
như chất kích thích đầy hương vị của “Ly phin đá nhân nha từng giọt đắng” ngấm
vào trong thớ thịt:
*Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
Câu thơ tôi
yêu mến đầu tiên là câu “nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn”: Bài thơ nầy tác
giả dùng chữ “em” nghĩa là viết thay cho một người con gái, và câu thơ nầy cho
thấy được hết cả cái tâm hồn uỷ mị của cô em, cũng cho ta thấy hết được cái
khung cảnh cô liêu nơi cô ngồi, cả sự lảng mạn trong suy tư của em. Nhặt hạt nắng
là hành động của một kẻ tâm thần, nhưng tất nhiên cô gái không là kẻ bị bệnh tâm
thần, vậy nhặt hạt nắng là một cử chỉ siêu lảng mạn của con người đa cảm, một hành
động vô tâm nhưng bày tỏ một tính cách rất nên thơ có trong một tâm hồn rất đẹp.
Câu thơ thứ
hai tôi thích là “nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan”. Ở câu thơ trên ta thấy
cô gái”nhặt bâng quơ hạt nắng”, ở câu thơ dưới ta thấy cô gái “nhặt hoài
mong” Vậy thì trong vế thơ nầy sự hoài
mong của cô gái được thể hiện trên hạt nắng. Cô gái nhặt hạt nắng như nhặt sự
hoài mong của mình, và tất nhiên hạt nắng thì trôi tuột qua “mười ngón tay đan”
nên sự hoài mong cũng trôi theo hạt nắng. Câu thơ liên kết sự mong đợi với hạt
nắng ngủ trên bàn thật là lý thú. Cái vô hình trong tâm được thể hiện bằng cái
hửu hình trên bàn, và cả hai được lồng trong bức tranh tỉnh vật chứa đựng sự sâu
kín trong hồn hoà điệu cùng phong cảnh.
Vế thư hai của
bài thơ là những tứ thơ mới lạ vô cùng. Tác giả dùng chiếc điện thoại để nói về
sự mong đợi của cô gái kia:
*Em
khắc khoải đợi một dòng tin nhắnthèm giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá bay vèo.
Trong câu thơ thứ nhì tác giả dùng chữ “
thèm giật mình” hay quá, bày tỏ sự khát khao nghe tiếng điện thoại, biến một từ
ngữ “thèm” bình thường trở thành độc đáo, khiến người đọc dễ dàng nghiệm cái “ thèm” thường ngày của mình để hiểu cái
nỗi chờ mong của người con gái.
Câu thơ thứ tư “ném miềm vui như chiếc lá
bay vèo” cũng là một hình ảnh gợi hình vừa buồn vừa đẹp, làm tăng khung cảnh nơi
cô gái ngồi man mát hơi thu.
Qua vế thơ thứ ba tâm hồn cô gái chùng
xuống trong đợi chờ, cô bắt đầu rơm rớm khóc:
*Mắt
ngân ngấn- “Người ơi” - em khẽ gọiđợi tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà : “…rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt trăng khuya
Vế thơ nầy cho ta thấy cô gái đợi người
tình đã quá lâu. Cô đã đợi từ chiều khi trời còn nắng đến bây giờ đêm đã xuống.
Cô gái biết trời không trăng khuya nghĩa là đêm tới đã lâu rồi. Câu thơ “ngỡ trời
tình ai thổi tắt trăng khuya” biến ánh trăng thành le lói như ngọn nến, cũng thể
hiện niềm hy vọng mong manh trong lòng cô. Trăng khuya thì ai mà thổi tắt được?
Tác giả dùng hình ảnh nầy để gởi cái hồn nhỏ nhoi của cô gái vào trăng. Cái hồn
tuy nhỏ nhoi nhưng khi được gởi vào trăng thì nó bao la biết bao, nó chính là cái
tình yêu vô bờ bến mà cô gái đang mang trong lòng. Vậy thì trong câu thơ nầy cái
trong sáng cao rộng của trăng được thu vào cả trong tâm hồn cô gái, và ngược lại
tâm hồn cô gái được nhà thơ làm cho toả ra bao trùm bầu trời. Cái nghệ thuật làm
thơ như thế nầy Châu Thạch gọi là “thiền”, vì thiền là định để thấy tâm mình và
lấy cái tâm mình mà quán được vạn vật. ( Đây chỉ là cách diễn ý của Châu Thạch
mà thôi chớ không phải là thiền thật).
Bài thơ qua vế thứ tư:
*Buồn
vây ráp đêm dài thêm sợi tóctựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.
Vế thơ nầy thì Châu Thạch tâm đắc nhất câu
“Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc” là một sự so sánh
ý nhị đầy chất thơ trong đó. Ở đây mái tóc
đen của cô gái được đồng hoá vào trong bóng đêm, và thời gian tâm lý thấy đêm dài
thêm được gởi vào trong hiện tượng sinh lý “dài thêm sợi tóc”. Người xưa thường nói “suy nghĩ một đêm làm
cho tóc bạc trắng” thì ở đây chờ đợi một đêm làm sợi tóc thêm dài. Chữ “dài” ở đây
vừa của đêm mà cũng vừa của tóc, thể hiện sự triền miên nôn nao bức rức trong lòng.
Qua vế thơ thứ năm cô gái không còn âm
thầm chịu đựng sự dằn xé trong lòng mà phải cất tiếng than van:
*Người gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩnnửa trên tay em bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót rưng rưng.
Một nửa linh hồn cô gái đã bị gieo vào hạt giống đau thương. Nửa linh hồn còn lại cô trân trọng như giữ trên tay mình đem dấu vào nơi cô tịch. “Bồng nắng về rừng” là đưa nắng về vùng rợp bóng, ở đó nắng cũng bị tắt đi vì cây che khuất. Rồi thì cả hai nửa linh hồn hay cả hai nửa tình yêu đều bị phủ phàng như đoá hoa ướt cánh, khóc than như “con chim hoá bụa hót rưng rưng”.
Thế rồi ở vế thơ chót cô gái trách mình, trách người trong vô vọng:
*Em khờ khạo xới lên miền cổ tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?
Ở vế nầy hai câu thơ “ Em khờ khạo xới lên miền cổ tích/ như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau” vẽ lên một bức tranh hiu hắt, rêu phong làm hình ảnh cuộc tình trở nên hoang sơ như một vùng thánh địa hoang tàn. Hình ảnh “mối đùn” cho ta thấy nổi nhớ ồ ạt đến, chiếm lỉnh cái tâm hồn u vắng, hình dung trong trí ta trăm ụ mối đùn lên trên vùng phế tích xa xưa.
Bài thơ “Thềm xưa, em đợi người về” Hà
Nhữ Uyên đã bố cục bài thơ theo vòng xoắn trôn ốc, đưa nối buồn mong đợi cao lên,
toả ra theo từng giờ. Nhà thơ đã sáng tạo những tứ thơ chưa ai từng dùng, khiến
cho người đọc thích thú với những hình ảnh rất mới lạ trong thơ để thể hiện sự
việc.
Tôi còn muốn viết nhiều về bài thơ nầy
nhưng trong khuôn khổ một bài đăng trên trang web không cho phép viết dài, nhưng
chắc chắn sự rung động trong lòng bạn đọc sẽ có hơn những gì tôi viết ra đây rất
nhiều./.
Châu Thạch