Đọc "Miền Trăng" Thơ Lê Ngọc Phái
- Châu Thạch
Nhỏ xuống buồn vui những giọt thơ
Trăng hay nến khóc dưới hiên mờ
Chênh chao bóng lẻ, đêm trầm mặc
Nghiêng ngả vòm xanh, lá ngẩn ngơ
Dáng ai thấp thoáng miền trăng lệch
Quá nửa đời ta vẫn đợi chờ.
Lê Ngọc Phái
Nhỏ xuống buồn vui những giọt thơ
Trăng hay nến khóc dưới hiên mờ.
Vào đề, giọt nắng, giọt thơ, giọt trăng, ba thứ khác
biệt nhau ấy đã cùng chung một linh hồn, hiệp một và đồng đẳng, mang ý nghĩa
của một nỗi buồn được bày tỏ dưới hiên mờ. Ở câu đầu của bài thơ tác giả nói
cái buồn, cái vui đều thành thơ nhỏ xuống, nhưng qua câu hai của bài thơ, tác
giả lại nói rằng “trăng hay nến khóc”.
Trăng hay nến mà đã khóc thì không thể khóc cho niềm vui được mà chỉ có thể
khóc cho nỗi buồn mà thôi. Vậy thì cớ sao tác giả lại trộn cái niềm vui trong
giọt nến? Bởi vì khi nhìn giọt nến nhỏ xuống, tác giả đang liên tưởng đến biết
bao kỷ niệm trong đời, những kỷ niệm vừa buồn vừa vui trong giờ phút ấy đã
thành những giọt thơ hóa thân vào trong giọt nến và rơi như giọt nước mắt lăn
dài. Cái vui thuở trước nay không còn nữa thì cũng biến thành cái buồn trong
nhớ thương hoài niệm. Vì vậy, giọt nến (cũng là giọt trăng, giọt thơ) không chỉ
khóc cho cái buồn mà còn khóc cho cả niềm vui ngày xưa đã mất.
Trăng đã chiếu đến từng giọt nến để tác giả
không thể phân định trăng hay là nến khóc, vậy thì trăng rất sáng. Trăng đã
sáng thì hiên trăng không mờ được, thế nhưng tác giả lại viết “Trăng hay nến khóc dưới hiên mờ”. Chắc
chắn ở đây trăng không khóc mà nến cũng không khóc nhưng chính tác giả là người
đã khóc. Nước mắt đã làm cho hiên cũng hóa ra mờ. Lần sau xin chớ đổ thừa cho
trăng và nến.
Chênh chao bóng lẻ, đêm trầm mặc
Nghiêng ngả vòm xanh, lá ngẩn ngơ
Ở đây tác giả nói “đêm
trầm mặc” nhưng không nói ai, cái gì “chênh
chao bóng lẻ”. Vậy có thể trăng chênh chao bóng lẻ, người chênh chao bóng
lẻ hoặc cả hai trăng và người đều chênh chao bóng lẻ. Đêm trầm mặc là đêm yên
lặng. Đêm yên lặng thì không thể có gió mạnh làm cho “nghiêng ngả vòm xanh”. Vậy thì cái gì làm cho nghiêng ngả vòm xanh?
Đó chính là tâm tư của tác giả. Tâm tư của tác giả chênh chao bóng lẻ nên thấy
trăng cũng chênh chao và chính cái chênh chao trong tâm hồn đã làm cho tác giả
tưởng như vòm xanh nghiêng ngả. Thúy Kiều ở lầu Ngưng bích, khi cái sầu lên quá
cao thì nàng nghe “ ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi”. Ở đây, Lê Ngọc Phái cũng thấy mọi vật chênh chao, vòm cây
nghiêng ngả, thơ, nến và người cùng khóc với trăng.
Dáng ai thấp thoáng miền trăng lệch
Quá nửa đời ta vẫn đợi chờ.
Miền là một vùng đất mang rõ rệt một tính chất địa lý
riêng biệt, hay là một vùng đất xác định đại khái theo phương. Vậy miền trăng
cũng thế, là một vùng trăng chiếu có tính chất riêng biệt hay là một vùng trăng
chiếu được xác định theo phương. Tuy thế, miền trăng cũng có thể không
được xác định bởi tính cách địa lý mà được xác định theo cảm xúc bởi tâm tư
tình cảm của con người. Miền trăng thứ hai là thứ miền trăng của Lê Ngọc Phái.
Thứ miền trăng thấp thoáng bóng của quá khứ và bóng ấy nặng đến độ khiến cả
miền trăng lệch. Bóng dáng của một người thì chỉ có thể thấp thoáng dưới ánh
trăng ở một điểm nào chứ làm sao thấp thoáng dưới cả một miền trăng được. Lê
Ngọc Phái đã viết rằng “dáng ai thấp
thoáng miền trăng lệch”. Vậy miền trăng đây không phải là miền trăng trong
hiện tại mà là miền trăng ở trong đầu tác giả, miền trăng của quá khứ, miền
trăng trong ký ức đã bị dáng ai ám ảnh suốt một thời. Miền trăng ấy không thấy
bằng mắt, chỉ thấy bằng tâm nên xa xôi, mơ màng, huyền ảo và buồn vô hạn.
Lê Ngọc Phái đang ngồi dưới một miền trăng mà thấy về
một miền trăng khác, một miền trăng mà anh đã “quá nửa đời ta vẫn đợi chờ”.
Miền trăng của Lê Ngọc Phái là miền trăng có nhiều tính chất, chiếm cả không
gian và thời gian, là miền trăng của mắt thấy trong hiện tại, miền trăng của
quá khứ thấy trong đầu, miền trăng của ký ức trong bóng dáng người xưa ẩn hiện
trong trăng. Tất cả những miền trăng ấy hòa quyện nhau, ẩn chứa trong nhau, đến
nỗi không phân biệt được đâu là cũ đâu là mới, khiến cho cái tĩnh và cái động
lẫn lộn vào nhau êm ái. Miền trăng làm “chênh
chao bóng lẻ, nghiêng ngả vòm xanh”
là miền trăng động. Động nhưng mà tĩnh vì nó chỉ xảy ra sâu trong lòng tác
giả. Miền trăng “ đêm trầm mặc, lá ngẩn ngơ” là miền trăng
tĩnh. Tĩnh nhưng ở trong thực tế hiện tại thấy được, sờ được là miền trăng
sống và động.
Tôi nói nhiều đến chữ tĩnh và động vì tôi muốn đề cập
đến cái chiều sâu xa và chiều rộng lớn có tính triết lý trong bài thơ Miền Trăng. Bài thơ nầy ẩn chứa sự huyền
nhiệm của tĩnh và động, của có và không, của mơ và thật, của quá khứ và hiện
tại hòa lẫn vào nhau. Nỗi đau khổ của sự cách ly trùm lên vũ trụ lại biến thành
những giọt trăng, những giọt thơ đẹp làm sao. Dáng ai thấp thoáng làm lệch miền
trăng trong quá khứ lại nằm trong đêm trầm mặc của trời trăng hiện tại. Đọc
miền trăng ta thấy trời gần, trời xa ở chung với nhau, quá khứ và hiện tại hòa
quyện nhau dưới hiên mờ, trong vòm xanh với lá ngẩn ngơ, nhập hồn trong giọt
nến giọt trăng biến thành giọt thơ nhỏ xuống buồn vui lẫn lộn. Vậy có phải chăng
là sắc tức thành không, không tức thành sắc đó sao?
Đọc sáu câu thơ của Miền Trăng như đọc sáu bài thơ, như
đọc sáu chục bài thơ và nhiều hơn thế nữa, như lạc vào động huyền không, động
sửng sốt hay như đi giữa miền trăng ảo tưởng, ảo vọng, ảo mộng mà ta thấy trước
mắt mọi vật rất gần nhưng đi hoài không đến.
Tôi đã lạc vào Miền Trăng của Lê Ngọc Phái và cũng có
lúc tưởng mình “quá nửa đời ta để đợi chờ”,
đợi chờ khám phá cho hết Miền Trăng.
Châu Thạch