Wednesday, August 19, 2015

Xuân Quang Trung - Cao Mỵ Nhân

Nữ sĩ Ngân Giang
Thủa đó mới vào khoảng đầu thập niên 80 thế kỷ trước, tức là gần 3 thập kỷ nay, tôi được hân hạnh diện kiến một nữ thi sĩ danh tiếng từ thời tiền chiến, là nữ sĩ Ngân Giang tại tư thất một nữ sĩ thuộc hội thơ Quỳnh Dao, đường Trương Minh Ký, Sài Gòn.

Do cơ duyên cũng chỉ là bình thường vì hội thơ Quỳnh Dao tuy thành lập ở miền Nam vào đầu thập niên 60 thế kỷ trước, nhưng gần như quý vị nữ sĩ thành viên đều ở lứa tuổi đã hoặc đang bước vào lão hạng cao niên, vì cố niên trưởng là nữ sĩ Cao Ngọc Anh cũng mới mãn phần cách ngày tôi đang kể độ mười mấy năm. Nữ sĩ Cao Ngọc Anh là ái nữ cụ Cao Xuân Dục, vị quan triều Nguyễn, nếu nữ sĩ còn "tại thế", thì đã ngoài trăm tuổi nhiều năm.

Nữ sĩ chủ nhân đón nữ sĩ Ngân Giang mới từ Hà Nội vô Nam vài ngày, tạm trú tại ngôi nhà X. đường Phạm Đăng Hưng QI.

Khi tôi tới sân biệt thự Thu Nga, thì đã nghe những chuỗi cười ròn ran của nữ sĩ Ngân Giang, có lẽ từ xưa, lối sống phong lưu và hào sảng của nhà thơ Ngân Giang đã chẳng cần khách sáo lắm, bà nghe nữ sĩ Thu Nga giới thiệu tôi ở thi đàn Quỳnh Dao, thì bà ngừng nói cười, ý nói có thật tôi chỉ đang ở nữa số tuổi của quý bà, mặc quần tây mầu sáng, áo thung, mà làm thơ... Đường nỗi gì... Nữ sĩ Thu Nga cười:
- Cao Mỵ Nhân là tác giả 2 câu trong bài thơ mà cụ Thái Can (Thi sĩ, bác sĩ tiền chiến) vỗ tay ở nhà ông bà luật sư Lê Ngọc Chấn đấy:
Khói vẫn tương tư vàng khí phách
Sương còn khắc khoải bạc sông hồ

Nữ sĩ Ngân Giang nắm tay tôi:
- Sao em làm được thơ Đường, ai dạy vậy?
Đoạn chúng tôi ngồi xuống dãy ghế, đang đợi một số khách, thơ khác, sẽ đến hàn huyên cùng nữ sĩ Ngân Giang.
Khách thơ gồm quý nữ sĩ thuộc hội thơ Quỳnh Dao, và số ít khách ngoài hội, mời tới là vì quen biết nữ sĩ Ngân Giang từ ở Hà Nội xưa, tức trước ngày chia đôi đất nước như quý cụ Tế Nhị, Trình Xuyên, Linh Điểu...và nhất là cụ Bùi Khánh Đản bạn rất xưa của nữ sĩ Ngân Giang trước thủa di cư năm 1954.

Nữ sĩ Ngân Giang có đặc tính tháo vát, làm chủ tình hình, khác với nữ sĩ Thu Nga gốc Huế, con quan Định Nguyên triều Nguyễn, bà hỏi tôi ngay:
- Em có nghe tiếng chị bao giờ chưa, có ai từng nhắc thơ chị không?
Nữ sĩ Ngân Giang xưng chị, hay mình với tôi. Tôi nhanh chóng quan sát bà: quần đen, áo cánh Bắc may rộng như áo bà ba trong nam, mầu xám, đi dép đen, tóc bạc trắng, bới cao. Tôi ngậm ngùi đáp:
- Em đã thấy hình chị, mặc áo dài nhung đen, quần sa tanh trắng, tóc vấn trần, son phấn rất đẹp, ngồi ở sập gụ cẩn sa cừ, giữa lòng Hà Nội.
Nữ sĩ Ngân Giang ngạc nhiên:
- Thế cơ à, sao em biết rõ vậy, lúc ấy chị còn quá trẻ mà.
- Dạ thưa, em thấy in nơi trang sách của tập thơ về Thi Ngân Việt Nam (Tiền Chiến).
Bỗng sắc diện nữ sĩ Ngân Giang cũng như chùng xuống, thở nhẹ:
- Ngày xưa nhà chị giàu lắm, ở phố lớn giữ "thủ đô" (Hà Nội) rồi cách mạng đến, ba lần, bảy lượt nổi trôi, giờ chị ở số 3 Bãi Ngũ Xá, bán nước chè xanh (là trà lá, nước vối vv...đấy)
Tôi cần "phát biểu" một ý tưởng...hòa đồng vui vẻ, trong sáng, để người thi sĩ nữ lưu, đã lão thành, không mặc cảm thời thế, tôi giả bộ vui mừng:
- Ô, lạ quá, mấy vị thơ danh tiếng toàn ở những nơi non nước hữu tình thôi à. Cụ Quách Tấn thì ở số 12 đường Bến Chợ Nha Trang, cụ Vũ Hoàng Chương và cụ Đinh Hùng thì ở gần chùa Kim Liên Bến Vân Đồn Khánh Hội, còn đại tỷ thì ở Bãi Ngũ Xã.
Nữ sĩ Ngân Giang cười lớn, đổi kiểu nói Bắc Kỳ xưa:
- Con bé này (là tôi đấy) láu lỉnh thật, thôi được, thế em nói đọc thơ chị ở đâu?
Tôi trả lời trịnh trọng:
- Thưa bài Xuân Mong Đợi đăng ở báo Tia Sáng Hà Nội năm 1953 và, bài họa Thu Dĩ Vãng của cụ Bùi Khánh Đản mới đây, tại biệt thự Song Linh, Bà Chiểu, chắc thơ làm lâu rồi, nhưng hôm đó, em mới được nghe...
Truyện trò tới đây, thì quý cụ khách thơ đã hiện diện đông đủ, kín cả phòng, khách của nữ sĩ Thu Nga, tuy vậy cũng chỉ độ trên 20 người.
Quý vị làm thơ rồi yêu thơ, thì chẳng làm sao quên được những giờ phút hội thơ, nên nữ sĩ Ngân Giang mỉm cười:
- Lâu nay Xuân Mong Đợi của tôi đã có nhiều vị họa, ở Hà Nội cũng có vị họa hay lắm, nhưng mình không mang theo đây, nay Cao Mỵ Nhân so với chúng mình (là quý cụ chủ, khách thơ trong ngoài hội Quỳnh Dao) thì cần phải trải nghiệm nhiều, (tức là nữ sĩ Ngân Giang muốn nói tôi cần phải làm nhiều thơ luật Đường mới vững được), vậy em về họa thơ Xuân Mong Đợi của chị đi xem nào.
Thế là vào ngày 24-3-1987, tôi đã "nộp bản họa" Xuân Hạnh Ngộ với lời ghi:
- Xin kinh tặng nữ sĩ Ngân Giang, sau tiệc mừng hội ngộ lần thứ hai ở biệt thự Úc Viên của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, do nữ sĩ Ngân Giang mới họa bài Xuân Mong Đợi (10 bài thất ngôn bát cú)

Với 10 bài Đường Luật, thì không thể chép nơi Chốn Bụi Hồng này, Cao Mỵ Nhân tôi xin trích tạm như vầy:

Đoạn 1-
  Như kiếp tằm mê mải kéo tơ
  Quên luôn ngày tháng sống trong mơ
  Từng vần óng ả đang trào bút
  Mỗi bước bâng khuâng chợt vỡ bờ
  Vẫn ý kinh bang mà mộng mị
  Còn tình tri kỷ lại bơ vơ
  Hỏi chi Xuân hỡi, xin Chờ Đợi
  Ta với Xuân chung một cõi thơ

Đoạn 8- (4 câu sau).
  ...Không dám nhìn lâu trong tiệc rượu
  Chỉ cần im lặng suốt canh gà
  Cả cười ngày tháng Xuân Mong Đợi
  Đổi mới tâm hồn hạnh ngộ qua.

Nữ sĩ Ngân Giang nhìn tôi, lặng lẽ đưa tay nắm thật chặt tay tôi, bà nói:
- Hay em đừng cần đi đâu, ở lại với chị Mộng Tuyết và chị, chị em minh cùng làm thơ...
Trời đất, nữ sĩ Ngân Giang biết quý vị hội thơ Quỳnh Dao đang liên tiếp xuất cảnh, và tôi cũng sẽ xuất cảnh thôi. Nhưng thơ là một chuyện, cuộc sống là một chuyện chứ.
Hôm nay, mùa Xuân đã qua lâu rồi, nữ sĩ Ngân Giang mong đợi một mùa Xuân Quang Trung xa thăm thẳm, nữ sĩ cũng đã quá cố ít năm sau đó.
Để chân thành kính nhớ nữ sĩ Ngân Giang, tôi xin chép 2 câu kết của đoạn 10, cũng là kết của 10 bài họa thơ Đường Luật còn non kém của tôi:
  Kỷ nguyên sau cũng yêu thời đại
  Nguyễn Huệ nghênh Xuân thật sục sôi
Nếu nữ sĩ còn tại thế, thì thời điểm chống Bắc Kinh bành trường, sẽ khiến nữ sĩ sáng tác thêm nhiều thơ Xuân Quang Trung, Nguyễn Huệ không chừng.

Hawthorne 25-5-2015
CAO MỴ NHÂN