Đọc “Thề Non Nước” của Tản Đà - Châu Thạch
THỀ NON NƯỚC
Nước non nặng một lời
thề
Nước đi, đi mãi,
không về cùng non
Nhớ lời “nguyện nước
thề non”
Non cao những ngóng
cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ
mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao
gầy
Tóc mây một mái đã
đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà
dương
Càng phơi vẻ ngọc,
nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa
già
Non thời nhớ nước,
nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá
mòn
Còn non còn nước hãy
còn thề xưa
Non cao đã biết hay
chưa
Nước đi ra bể lại mưa
về nguồn
Nước non hội ngộ còn
luôn
Bảo cho non chớ có
buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn
đi
Ngàn dâu xanh tốt non
thì cứ vui
Nghìn năm giao ước
kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
Tản Đà
Lời bình:
Với câu thơ mở đầu “Nước non vẹn một lời
thề” tác giả đã tóm lược chủ đề của bài thơ là nói đến tính thủy chung. Hai
hiện tượng biểu hiện chủ yếu của trời đất được thể hiện trong hình
tượng nước và non. Nước và non thường là hình ảnh của tính cao rộng sau
trời và biển, tính bền vững, tính keo sơn gắn bó. Ở đây nước và non trong bài
thơ không những được nhân cách hóa thành hai nhân vật mà còn hóa thân hai nhân
vật nầy có linh hồn cao ngang tầm với chính nó. Tiếp theo câu thứ hai “Nước đi
đi mãi không về cùng non” chỉ sự phân ly giữa hai nhân vật vì hoàn cảnh bó
buộc. Từ các chữ “vẹn một lời thề” đến các chữ “đi mãi không về” cho ta biết
được hai nhân vật nầy vì hoàn cảnh ngang trái nào đó đành phải xa nhau nhưng
lời thề hẹn ước vẫn còn giữ vẹn trong lòng. Qua câu ba và bốn “Nhớ lời nguyện
nước thề non / Nước đi chưa lại, non còn đứng không” khẳng định giả thuyết nêu
trên là đúng. Hai câu thơ ba và bốn cho ta hình dung bầu trời cao rộng, bát
ngát của nước và non. Hình ảnh nước đi và non đứng trông theo gợi nhớ đến toàn
thể những cuộc chia ly giữa đời người. Dùng hình ảnh nước và non làm nhân vật
chính của cuộc chia ly, tác giả gởi được vào đó tất cả sự cao cả trong tính
cách chia ly, nó thể hiện cho những mối tình lớn của con người với con người,
thể hiện cho mối tình lớn của con người với tổ quốc hoặc thể hiện cho non sông
với chủ quyền của dân tộc.
Sáu câu thơ kế tiếp tác giả tả về người trong sự khắc khỏai ngóng trông, những biểu hiện bên ngoài bày tỏ tâm can ngưởi ở lại:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha
Trong vế thơ nầy, người ở lại được tác giả
tạc trong hai hình ảnh: Hình ảnh thứ nhất là hình ảnh mình hạc xương mai chỉ
vóc dáng hao gầy vì nhớ thương cũng như mái tóc mây vì ưu tư mà trở nên
màu sương tuyết. Hình ảnh liên tưởng là hình ảnh thứ hai của rừng mai, của
suối, của mây, của tuyết trên ngọn núi kia là những bức tranh sinh động tuyệt
hảo hay đó là sự miêu tả một quần thể nước non vừa diễm lệ vừa trữ
tình mang nỗi buồn triền miên bất tận. Đọc đoạn thơ nầy với những hình
ảnh của sông, của núi, của suối, của ghềnh khiến cho những thắng cảnh
trong thiên nhiên mơ hồ ẩn hiện trong ta, lòng ta cảm thấy được thích thú
thưởng thức một bức tranh sơn thủy hữu tình buồn, đẹp mà tim ta lại co
thắt vì nỗi nhớ nhung vừa đầy vơi vừa cao rộng xa vời là tâm tư của con người
lồng trong cảnh vật. Đây là một đoạn thơ với những hình ảnh thường dùng trong
Đường thi nhưng tiếng thơ lại trong veo, tinh khôi và song suốt như tiếng thơ
của dòng thơ mới Tự Lực Văn Đoàn. Nhiều người cho rằng ở đây tác giả dùng “Non”
để tượng trưng cho người nữ và câu thơ “Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi
pha” khẳng định thêm cho điều đó vì “vẻ ngọc” thường nói về dung nhan nữ
phái. Cũng có thể, “Non” chỉ tượng trưng cho người ở lại mà
thôi và “vẻ ngọc” thể hiện cho thần thái tươi vui trên khuôn mặt khi nước và
non còn đoàn tụ cùng nhau. Chữ “non” thường để thể hiện cho chí lớn, chí
nam nhi. Vậy chữ “non” ở đây nếu không dùng cho người nam thì chỉ dùng chung
cho người ở lại mà không phân biệt giới tính nào.
Bốn câu thơ kế tiếp tác giả nhắc lại
cụ thể lời thề giữa hai nhân vật Nước và Non:
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
“Non cao” thể hiện một mối tình rất
lớn. “Tuổi vẫn chưa già” thể hiện một tình yêu luôn tươi thắm, trẻ
mãi với thời gian. Câu thơ “Non thời nhớ nước, nước thời quên non” thì chữ
“quên” không phải để chỉ sự phản bội của Nước mà để chỉ sự hy sinh của Nước tạm
quên tình riêng của mình vì mãi mê đi theo một lý tưởng cao đẹp hơn. Hai
câu thơ kế tiếp”Dầu cho sông cạn đá mòn / Còn non còn nước hãy còn thề xưa”
chứng tỏ lập luận nêu trên là đúng.
Nhiều người cho rằng vế chót của bài
thơ là một đoạn kết có hậu của “Thề Non Nước” vì nước đã quay về cùng non. Cũng
có người cho rằng, đọan cuối của bài thơ chỉ là lời phủ dụ, lời phân tích
của tác giả để an ủi sự đau buồn của nhân vật Non:
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Câu thơ “Nước đi ra bể lại mưa về nguồn” có
thể hiểu đây không phải là hình ảnh của sự đoàn tụ đầy niềm vui, bởi vỉ Nước
trở về trong thể trạng khác xưa. “ Nước đi ra bể” là nước đã hoàn thành ước
vọng, chính nó không còn quay về được nguyên hình. “Lại mưa về nguồn” là nước
hóa thân trong dạng khác để quay về . Đây là lời an ủi khích lệ của người ngoại
cuộc chỉ làm cho Non nhẹ lòng nhưng chắc chắn không làm cho Non vui lại được
như xưa. Chính câu thơ nầy làm cho “Thề Non Nước” trở nên éo le và buồn
vô tận vì sự quay về của nước chỉ hy vọng mong manh trong những đám mây vần vũ,
trong lời khuyên nhủ của người đến chia buồn, hoặc hiểu xa hơn nữa, mưa chỉ là
linh hồn của nước đã ra đi, nay theo hư không quay về với núi. Sự quay về
của nước chỉ có thể hiểu là sự quay về trong tâm tưởng của hai linh hồn hòa hợp
cùng nhau, gặp nhau trong sự chung thủy tinh thần hoặc gặp nhau trong sự
thành công của sự nghiệp lớn mà hai người hiến dâng tình mình cho nó. Chính
vế thơ nầy xác minh cho lời “Thề Non Nước” là lời thề của những tâm hồn cao
đẹp, hy sinh tình yêu trăm năm cho tình yêu lớn hơn và sự đoàn tụ là ý nghĩa
còn nhau mãi mãi trong tinh thần nên đã trở thành “Nghìn năm giao ước kết đôi”.
Câu thơ “Nước kia dầu hãy còn đi/Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui” nói rõ thêm
sự phân ly giữa Non và Nước để thực hiện cho những điều tốt đẹp hay đúng ra cho
đất nước, quê hương. Bài thơ được sáng tác trước, sau đó đưa vào truyện ngắn
cùng tên cũng nói lên được phần nào ngụ ý của tác giả trong thơ. Ở câu kết tác
giả nhấn mạnh “Còn non còn nước vẫn còn thề xưa” chứ không phải là “Vẫn còn gặp
nhau”. Hiểu như trên lời “Thề Non Nước” thêm lâm ly và cao đẹp. Ở một
khía cạnh khác thì bài thơ có ý nghĩa bao trùm, cao xa của giáo lý nhà Phật. Lẽ
vô thường có có, không không như dòng nước chảy dưới chân núi là có, chảy đi là
không rồi mưa về là có, rồi lại chảy đi là không và cứ thế luân hồi. Chia ly,
đoàn tụ rồi lại chia ly ngàn đời vẫn thế, cũng giống như nước trôi đi, nước bốc
hơi quay về rồi nước lại trôi đi nhưng nước đã giữ vẹn lời thề dầu trải
qua cam go và dầu nước rơi ở đâu vẫn làm cho non ngàn đời ấm áp, cây cối mọc
xanh tươi.
Bài thơ “Thề Non Nước” của Tản Đà sáng tác
cách đây gần trăm năm đã làm rung động lòng người qua bao thế hệ:
Đọc thơ ta có thể hòa mình trong bức tranh
sơn thủy hữu tình
Đọc thơ ta cảm xúc với tình yêu keo sơn gắn
bó của con người.
Đọc thơ ta cảm phục những con người chia
tay ra đi vì sự nghiệp lớn lao, vì lý tưởng cao đẹp.
Đọc thơ làm bùng lên trong ta tình yêu thủy
chung giữa nam và nữ, giữa người và gia đình, giữa ta cùng đất nước quê hương.
Đọc thơ ta còn chiêm nghiệm thêm quy
luật hợp tan trong trời đất, qua đó ca ngợi sự thủy chung và niềm tin là hai
điều đơm bông kết trái cho hy vọng đạt được ước nguyện sau cùng.
CHÂU THẠCH