Sunday, March 29, 2015

Món Nợ Đầu Xuân - Phạm Hồng Ân
truyện ngắn
 
   Chợ xã bắt đầu vắng tanh. Người ta vội vã thu xếp hàng hóa, tất bật về nhà để kịp chuẩn bị đón Tết. Hôm nay là ba mươi. Ngày giao thừa. Ngày tống cựu nghinh tân. Gia đình nào nghèo nhất cũng phải có dĩa trái cây, dĩa mứt, hoặc vài
lát bánh tét đặt lên bàn thờ. Giờ này, cái đồng hồ quán cà phê chú Tửng chỉ đúng ba giờ trưa. Thế mà, con đường làng đã rợp bóng người. Trai thanh gái tú ăn mặc bóng loáng, kéo nhau đi lũ lượt.
   Chỉ có tôi, vẫn còn đứng đây. Giữa khu chợ thưa thớt, với xấp vé số dày cộm. Hôm nay đài Cửu Long. Cái đài khốn kiếp, tuần nào cũng có lô độc đắc vô tay cán bộ. Còn dân, Sáng mua chiều vứt. Tội nghiệp, họ cầm đồng tiền chắt chiu để mua những tờ giấy lộn, chết tiệt.
   Chiều qua, thằng con tôi đã cảnh cáo:
   – Cửu Long là cõng lu. Nặng chình chịch. Ba coi chừng “ôm” đó! Lãnh in ít thôi ông ơi!
   Mẹ, nó còn nhỏ, nên ăn chưa no lo chưa tới. Nó chưa biết chi về tục lệ ông bà. Chiều ba mươi Tết, khạp gạo phải đầy tràn. Nước nôi phải lai láng. Tệ lắm, cũng phải có một phong bánh in cúng ông bà, vài cây pháo chuột để đốt đì đạch đón giao thừa chào mừng năm mới. Lãnh in ít thì lấy đách chi mà ăn. Lấy cái gì làm tiền để mua gạo, mua bánh.
   Từ Ðây về nhà, tôi nhẩm đếm sẽ leo hết 14 cây cầu khỉ chênh vênh chập chùng. Sẽ lội qua 4 ấp : Phú Bần, Phú Kiệt, Phú Keo và Phú Hàn. Xấp vé số, ít ra cũng vơi hơn phân nửa. Bọn trẻ đang có tiền lì xì. Chúng muốn lấy hên cuối năm. Ở đây, trong cái chốn đồng không mông quạnh này, chúng chỉ còn cách thử thời vận bằng đánh bạc hoặc mua vé số cầu may. Rồi, tôi sẽ lời chút tiền. Trở về căn chòi mục nát ở Phú Hàn, cạnh bờ ao cá tra của chị hai Rớt, thắp nén nhang đầu năm tưởng tiếc ông bà. Rồi, vợ chồng con cái sẽ quây quần bên mâm cơm đạm bạc, ôn cố tri tân, tính toán chuyện tương lai.
   – Anh bán vé số ơi, vào đây cho em mua vài vé…
   Một cô bé thấp thoáng trong sân vườn. Vạt áo bà ba màu hoàng yến phất phới như đôi cánh nàng tiên nào đó trong huyền thoại.
   – Anh  lựa hộ dùm em 10 vé, cầu may…
   Tôi trao 10 vé cho nàng. Những con số đen đủi, lăn quay một cách hèn hạ trên bàn tay mượt mà, mềm mại của cô bé.
   – Em tên Út, con của Tám Bòn, bà con bên vợ với anh đây…
   Căn nhà mái ngói trong đám mía đường tịch mịch này đây, bỗng vươn ra, lớn dần, và nhào lộn trong trí nhớ tôi. Hôm ở tù về, vợ tôi có dẫn đến, giới thiệu với cậu tám – một người chủ vườn trung niên, từng lưu lạc khắp nơi trong thời chiến tranh còn ác liệt.

   – Ồ, chào cô. Tôi có đến thăm cậu tám một lần, nhưng không gặp cô…
   – Em dạy học ở Mỹ Tho, mới về.
   – Ồ…thì ra cô…là giáo chức…Rồi, về chơi…chừng nào cô trở lại lớp học?
   – Em trốn luôn. Giáo chức…vức cháo dài dài…Em không còn tinh thần phát huy nghề nghiệp nữa…
   Tôi ngậm ngùi. Khuôn mặt Út bỗng mập mờ hư ảo trước mắt tôi. Ðó là một khuôn mặt trái soan thanh tú, chỉ tội có nốt ruồi phá tướng nằm vắt ngang môi trên, dưới cánh mũi phập phồng. Thế rồi…nàng sẽ như tôi. Sẽ về vườn làm cỏ, lội mương, chôn cuộc đời son trẻ vào các vũng nước ao tù.
   Trong số khách hào phóng mua vé số tôi mỗi ngày, Tư Ðà là một thanh niên có những nét đặc biệt. Hắn thường đến nhà tôi vào lúc gà gáy sớm, lúc sương còn ướt đầm ngọn cỏ. Hoặc khi trời tối mịt, khi bóng đen trùm phủ ấp Phú Hàn, chỉ có ánh đuốc của hắn lập lòe bùng cháy trong đêm.
   Hắn đến để rút dăm tờ vé số chết tiệt, rồi ngồi bó gối cùng tôi uống trà, rung đùi kéo những hơi thuốc rê mịt mù sương khói. Ðôi khi, trong cơn mưa dai dẳng buồn nẫu ruột, hắn cắp nách xị đế chạy tìm tôi, rồi hái quách trái bưởi non làm “mồi”, hai anh em ngồi lai rai đến khuya lơ khuya lắc.
   Tư Ðà sinh ra và lớn lên tại Phú Hàn. Và chỉ biết có đồng ruộng, con trâu, cùng cỏ cây hoa lá. Ðến tuổi thanh niên, người ta dí vào tay hắn cây AK, rồi đẩy hắn ra bờ sông làm du kích ấp. Tội nghiệp, suốt thời gian đi du kích, hắn chỉ biết trốn chui trốn nhủi trong những căn hầm hôi hám, khi máy bay hoặc tàu thủy của lính Cộng Hòa thi nhau tăng hỏa lực đì đùng. Cứ bị dồn vào chiến cuộc như thế, hắn không có điều kiện cắp sách đến trường, nên dốt đặc cán mai, một chữ i tờ lận lưng cũng chẳng có. Chiến tranh chấm dứt, khi tiếp xúc với đủ thành phần trong ấp Phú Hàn, Tư Ðà cảm thấy thua thiệt. Hắn bắt đầu đau khổ, chán đời, mượn rượu tiêu sầu. Rồi…tìm đến tôi – một kẻ bị đời chán – bầu bạn giải khuây.
   Sáng mồng một tết năm nọ, tự dưng, hắn mang đến tặng tôi một gói Samit đầu lọc. Hút thuốc rê khét lẹt đã lâu, bỗng dưng có Samit như bắt được vàng, tôi vội hít vào tận phổi những hơi khói thơm lừng, sảng khoái đưa tâm trí mình về cõi mê hoang, quên mất Tư Ðà đang lúng ta lúng túng mở đề câu chuyện.
   – Anh sáu, tui…tui…có chuyện…nhờ anh…
   Tôi rung đùi, từ tốn rót tách trà “quạu” cho hắn :
   – Chuyện gì? Cứ nói. Bạn bè nhau, khách sáo chi nữa, ông bạn?
   Hắn hồi hộp ngó láo liên xung quanh, rồi e dè kề sát tai tôi :
   – Tui…nói, anh đừng cười. Tui…tui…thương…cô Út, con Tám Bòn…
   Tôi chưng hửng, ngó hắn từ đầu đến chân, từ chân lên đầu.
   – Thì…cứ việc tỏ tình. Biểu lộ cho nàng biết tình yêu của mình.
 Mắt hắn đỏ hoe, cuống quít nhìn tôi một cách thiết tha :
   – Anh hút Samit thêm đi. Rồi…suy nghĩ, viết dùm em lá thư tỏ tình. Anh thông cảm, giúp…em…
     Những ngụm thuốc Samit làm tôi hưng phấn, thoải mái tinh thần. Mùi thuốc ngọt lịm, thơm phức…cứ thoang thoáng xung quanh – gây nên cảm giác ngất ngây chất ngất. Gần mười năm qua, tôi đã làm bạn với thuốc rê. Ôi, những sợi thuốc rê đen mun và hăng hắc, hút với giấý nhựt trình chỉ ngửi được mùi giấy khét lẹt. Vậy mà nó cũng kích xúc, cũng tê mê, giải phá cơn sầu. Cám ơn Tư Ðà, người mang đến cho tôi gói samit tuyệt vời giữa chốn khỉ ho cò gáy này.
   – Dễ thôi. Tôi viết dùm anh…bây giờ.
   Thế rồi, lá thư tình được tôi nắn nót một cách lãng mạn. Tôi “cóp” nguyên xi bài Un Secret của nhà thơ trữ tình Pháp Félix Arvers thế kỷ 19, được nhà văn Khái Hưng dịch lại bằng lời Việt, đặt tên là Tình Tuyệt Vọng. Tư Ðà hồi hộp thay tôi sang tận Phú Keo bán vé số. Hắn đột nhập vào đám mía đường tịch mịch, khẩn thiết mời mọc Út mua số, rồi ấp a ấp úng trao lá thư tình.
   Vài ngày sau, giữa lúc tôi đang ngồi xếp bằng dưới chiếu, tẩn mẩn ghi lại kết quả xổ số từ radio – Tư Ðà thình lình xuất hiện. Hắn hí hửng đưa cho tôi xem lá thư hồi âm, rồi choàng vòng tay qua vai tôi, biểu lộ lòng biết ơn trìu mến.. Nét chữ mềm mại con gái khiến tim tôi se lại. Hàng loạt kỷ niệm học trò hiện ra miên man, dắt tôi trở lại thời áo trắng xa xưa. Không cầm lòng được, tôi dẹp radio sang một bên, cầm bút viết ngay dòng chữ hồi âm. Thế rồi, thư qua thư lại, thư lại thư qua…ròng rã gần hơn năm trời. Cho tới một hôm, đúng ngay ngày ấp Phú Hàn đồng loạt quết bánh phồng đón tết. Giữa tiếng thình thịch thình thịch vang rân khắp xóm làng, Tư Ðà vui vẻ đến nhà tôi, trịnh trọng trao tấm thiệp cưới với nụ cười rạng rỡ. Như vậy, bắt đầu từ hôm nay, tôi đã chấm dứt nhiệm vụ của một kẻ se duyên. Cầu mong mối tình Tư Ðà và Út trọn đời gắn bó.
   Chẳng hiểu hạnh phúc có thật sự đến với cặp tình nhân này hay không? Chỉ biết, khi tôi sắp sửa đi Mỹ, Út vội vã đến tìm tôi, rồi nhanh nhẹn lôi tôi ra phía hàng cam xanh um trĩu trái.
   Ðêm ấy cũng là đêm giao thừa. Nhà nào nhà nấy đều đốt đèn thắp nhang đỏ rực cả khu ấp. Dưới bóng tối vây quanh của vườn cam, trong ánh sáng nhờ nhờ của ngọn đèn nhà tôi hắt ra, tôi thấy những giọt nước mắt lả tả rơi não nề trên khuôn mặt Út.
   – Có phải những lá thư năm xưa, chính anh là tác giả…Anh viết hộ cho Tư Ðà phải không?
   Tôi quính quáng, nghẹn lời :
   – Ơ…ơ…
   – Anh hại em, hại cả một đời. Tư Ðà không xứng với em. Anh ta mù chữ, dốt tính toán, chẳng giúp cho em được chi hết…
   Tôi xót xa nhìn Út, khuôn mặt trái soan mập mờ, lung linh một cách tội tình.
   – Ơ…ơ…Anh xin lỗi…
   Út úp mặt vào hai bàn tay khóc rấm rức. Bờ vai nhô lên, rung rinh như một cánh buồm trên sóng nước. Ðột nhiên, nàng cất tiếng, quát lớn vào tai tôi :
   – Anh ác lắm, tàn nhẫn lắm !…
   Rồi vụt bỏ chạy như điên, khuất dần trong bóng đen mịt mùng của ấp Phú Hàn.
   Cho tới giờ này, ở phương trời viễn xứ xa lạ, tôi vẫn luôn bị dày vò, vẫn ân hận mãi về chuyện se duyên lá lay này.

                                     PHẠM HỒNG ÂN