Âm Nhạc Của Yên Lặng - Nguyễn Khắc Phước
truyện dịch
– Nguyễn Khắc
Phước chuyển ngữ
Lão
Vicente ở đảo Formentera có lẽ là người hạnh phúc nhất mà tôi từng biết. Và có
lẽ cũng là người nghèo nhất nữa.
Thân
hình lão đen sạm, nhăn nheo, lom khom, gầy như bộ xương cách trí và không bộ đồ
nào lão mặc mà còn nguyên, chưa vá. Lão sống ở Cala Pujol dưới một mái chái che
chắn bằng đá, gỗ và cây trôi dạt, đồ đạc chỉ có một cái lò nướng bằng sắt rỉ
dùng làm bếp và hai cái bát mẻ bằng sắt lượm từ rác phế thải của ngư dân. Nhưng
lão lại sở hữu một bộ đồ lặn tuyệt hảo, một đôi chân nhái và một cái mặt nạ lặn.
Và, như đã nói, tôi tin không có ai hạnh phúc hơn lão.
Trong vòng vài năm trước, tôi đã đến Formentera mấy lần, nhưng lần này,
hình ảnh lão Vincente tình cờ đập vào mắt
tôi khi lão cùng đám ngư dân kéo thuyền của họ vào dưới những cái lán bằng tre
và cây ở cuối bãi cát, nơi tiếp giáp với bãi đá. Rốt cục, hóa ra, lão không phải
là một ngư dân. Lão không có thì giờ để đánh cá.
Nhờ
tôi biết được một ít tiếng Ibicenco, thổ ngữ của lão, một thứ tiếng hoàn toàn
khác với tiếng Tây Ban Nha của người Ca-ta-lan (Castilian), nên ngay lần đầu gặp
lão, tôi biết lão đang hỏi một ngư dân để mượn một chiếc thuyền nhỏ, hỏi thẳng
thắn, không hề van xin. Tôi không hiểu tại
sao lão là một ngư dân mà lại không có thuyền, tuy vậy, tôi gợi ý cho lão mượn
cái thuyền nhỏ mà tôi thuê mỗi lần đến Formentera nhưng ít khi dùng đến. Lão
cám ơn tôi một cách lịch sự khiến tôi có ấn tượng tốt về lão.
***
Tôi
theo dõi lão bỏ đồ lặn, chân nhái, mặt nạ, bình nước, một gói nhỏ thức ăn vào
thuyền. Chẳng có cần câu hay súng săn cá dưới nước cho đủ bộ. Tôi không biết
lão định bắt cái gì và bằng cách nào. Tôi nhìn người đàn ông nhỏ bé bơi thuyền
ra, hướng về phía đường chân trời, quả quyết.
Tôi
theo dỏi cho đến khi lão chỉ còn là cái chấm nhỏ trên đường chân trời, rồi quên
lão. Ở Cala Pujol, dễ quên lắm. Nước biển màu lam ngọc trong đến tận đáy. Bãi
cát chưa có ai dẩm chân, bờ biển hình vòng cung trắng bạc –năm tôi nói, nó vẫn
như vậy – và nắng thì trời ban thường ngày. Thanh bình như thế, ai mà không
quên.
***
Một
hôm, gió thổi mạnh từ hướng Châu Phi, không khí biển thì oi bức và chẳng ngư
dân nào ra biển. Họ ngồi trong quán nhỏ có mái bằng tre bên bờ biển, uống rượu
đỏ và tán chuyện.
“Vincent về chưa?”
“Chưa.”
“Lão
ta loco, este homebre, hơi khùng.”
“Chẳng
khùng tí nào đâu. Lão có ý định tốt đấy.”
“Mày
nghĩ vậy hả? Mày cũng loco luôn.”
“Tao
hả? Không đời nào. Tao hiểu mục đích của lão, hiểu rất rõ.
“Có
phải Vicente mà các anh đang nói là cái lão có bộ đồ lặn không?”, tôi hỏi.
Cả bọn
họ đều đồng thanh “À ha”.
Tôi
kêu thêm một chai rượu xứ đảo, thứ rượu chỉ có dân ở đây uống. Không ai muốn
chơi trội bằng cách kêu thứ ngon hơn.
Thế
là ngồi ở đó, với ngọn gió thổi từ Phi Châu khuấy động biển cho đến khi dậy bùn
dưới sâu và tung bọt trắng lên trên, tôi được nghe câu chuyện kể về Vicente.
Sáu
mươi năm trước đây, lão là một chảng trai đầy tham vọng. Vicente bỏ đảo mà
đi. Nhưng 60 trước, chẳng có nhiều việc
dành cho người Tây Ban Nha ở nước mình. Thế nên Vicente lên làm việc trên những
tàu biển của người nước ngoài, được một thời gian thì trở lại. Chàng trai đi khắp
nước và làm đủ thứ việc, rồi dừng chân ở một nơi mà nhiều người giỏi dang hơn
cũng đã dừng chân, đó là cầu tàu của cảng Barcelona, để làm một phu khuân vác –
một mozo.
Lão
đã từng mộng mơ nhưng mơ mộng đôi khi làm người ta thất bại. Thế nên lão đành
khuân vác hành lý của người khác: người Tây Ban Nha giàu có, khách tham quan,
khách du lịch nước ngoài. Mãi cho đến cách đây mười năm, lão vẫn đứng ở cái cầu
tàu đó, đội cái mũ có số, chỉ vào ngực mình và la lớn, “Tôi hả? Tôi đây! Số bảy
mươi ba đây!”
Một
hôm, một người Mỹ giàu có đến bằng thuyền của một tàu từ Palma trông thấy cánh
tay vẫy cuống cuồng của lão và gật đầu ra hiệu. Vicente theo những phu khuân
vác khác đi thành hàng theo tấm ván để lên chiếc thuyền màu trắng. Khi lão đến,
người Mỹ giàu có nói, “Sáu cái va li này và cái kia. Mang nó phải cẩn thận. Đồ
cổ đấy.”
Vicente nhận ra cái bình bằng đất, thứ vò hai quai thuộc nền văn mình cổ
đại Phê-ni-xi (Phoenicia), một mẫu vật khá lớn, đẹp và hiếm, dùng để đựng loại
hàng như rượu hoặc ngủ cốc để chuyển đi bằng đường thủy. Ngày xưa, ngư dân thỉnh
thoảng bắt được chúng vào lưới mình. Họ thường ném chúng xuống biển. Nhưng nay
thì họ không ném nữa kể từ khi các senores từ thành phố xuống mua cho bảo tàng
của họ.
Vicente
nâng mấy cái vali lên vai, tay nhấc cái bình bị biển nạm, màu phớt hồng, bước
lên tấm ván. Mọi người chen nhau để ra khỏi thuyền, lên bờ, lão ta la, bọn họ
cũng la. Lão đến cầu tàu, và một người phu khác, vì vướng vào dây neo tàu, té ập
vào lão khiến lão đánh rơi cái vò hai quai.
Hai
ngàn năm bỗng chốc rớt cái bụp tan tành. Thế là xong!
Mười
năm trước vẫn còn tìm thấy loại vò hai quai của người Phê-ni-xi, người Hy-lạp,
hoặc người La-mã trong những vịnh cạn ở vùng đảo Ibiza, nhưng nay thì hầu như
chỉ còn những vật không mấy giá trị từ thời cận đại, rất hiếm thấy những cổ vật
có giá trị cao. Người Mỹ đó đã trả 500 đô-la để mua cái bình Phê-ni-xi đó, đã
thuê những nhà chuyên môn xác nhận là đồ cổ thật. Đương nhiên là ông ta tức giận.
Nhưng ông ta cũng là một người sáng suốt
để biết rằng một người phu khuân vác như Vicente làm suốt đời cũng không sao kiếm
đủ 500 đô-la nên ông ta đành chấp nhận rủi ro và sẵn sàng quên sự mất mát.
Nhưng Vicente không chịu vậy. Lão biết cái giá trị mà người ta gán cho
những cái bình, cái lọ cũ vô dụng đó như thế nào; lão đã thấy vẻ thất vọng trên mặt của người Mỹ. Vicente là một người
trọng danh dự nên lão muốn đền bù.
Lão
theo người Mỹ đến khách sạn, nài nỉ xin cho được tên và địa chỉ và hứa sẽ đền lại
cho ông ta. Trên mãnh giấy không được lành lặn xé từ một cuốn nhật ký, ông ta
ngoáy mấy từ: Abraham Lincoln Smith, 72 Hudson Avenue, Milwauki, Wisconsin,
U.S.A và tờ giấy trở thành vật quý giá của lão. Đó là cột mốc tối hậu trong cuộc
tìm kiếm lâu dài của lão.
Tôi
tin là trong giấc mơ lão Vicente đã thấy mình rốt cục đến được Milwaukee,
Wisconsin, U.S.A, tay mang cái vò hai quai Phê-ni-xi cổ, được chào đón và khen
ngợi.
Vicente biết rằng lão chẳng bao giờ có tiền để mua cái vò hai quai đó,
nhưng mắc mớ gì không đi kiếm cho mình một cái. Hồi nhỏ, lão đã trông thấy nhiều
người tìm được. Tại sao lão lại không?
Lão
chẳng có gia đình, và cũng chẳng mất thì giờ để từ bỏ cuộc sống ở Barcelona
đông đúc, nhộn nhịp bên bờ biển ấy, nơi lão đã khuân vác va-li cho người ta để
kiếm tiền uống rượu và cái phòng ở không có lấy một cửa sổ.
Khi
lão đã bán hết chút đồ đạc, lão mua vé đi Ibiza và xa hơn một chút. Từ phía
đuôi thuyền, lão quay nhìn lại thành phố khuất dần sau biển nước, và lão chợt
nhận ra rằng những năm tháng lão ở đó chẳng khác gì tự giam mình vào nhà tù.
Lão chẳng bao giờ ngước mặt khỏi đường phố chật hẹp để nhìn bầu trời rộng bao
la.
Thêm
một lần trong đời, kể từ hồi còn bé, lão lại được nghe âm nhạc của biển khơi.
Khi
đã trở về với đảo, lão bắt đầu thực hiện việc đã định. Lão tìm hiểu nơi nào người
ta đã phát hiện những chiếc vò hai quai, và lão, cũng như nhiều người trước
lão, nhận ra rằng những đồ cổ quý giá ở gần bờ đã được tìm kiếm và lấy sạch.
Sandik, một thanh niên ở Santa Eulalia del Rio, con của một lão thợ mộc,
đã trở thành một thợ lặn biển nổi tiếng. Anh ta đã tìm thấy một khẩu đại bác dưới
đáy biển. Muốn tìm Sandik để nhờ khuyên bảo, lão đi xe buýt đến chỗ của anh ta,
và Sandik cho lời khuyên ngắn gọn. Kiếm mặt nạ, chân nhái và ra xa ngoài biển.
Trên đường ra, nhiều chỗ cạn sâu chưa biết được, chỗ thì cạn vừa ngập đầu người,
chỗ thì sâu bằng hai, ba chiều cao của người, và trong hang sâu dưới đáy biển,
kho tàng có thể vẫn còn nằm đó.
Hồi
đó, Vicente, cũng như nhiều người sinh ra ở đảo, chưa bao giờ học bơi. Theo lời
khuyên của Sandik, lão dùng hết món tiền còn lại để mua một bộ đồ lặn thật tốt,
cặp chân nhái và một mặt nạ. Rồi lão đi thuyền nhỏ đưa thư Manolito trở về đảo
Formentera. Ở đó, cắm trại trên bãi, xin ăn qua bữa, quả quyết đeo đuổi một mục
đích duy nhất, lão bắt đầu tự học bơi.
Lúc
đó lão đã trên 60. Lão là một cụ già vì thời gian chẳng chừa một ai. Tuy vậy,
cái sự thôi thúc muốn học và đi về phía chân trời thì vẫn còn trẻ trung.
Lão
học bơi và học lặn với đồ lặn của lão ở vùng nước cạn gần Cala Pujol. Dần dần,
lão mạo hiểm bơi ra xa hơn, rồi xa hơn nữa, tới nơi nước chuyển sang màu tím, bắt
đầu vùng biển sâu. Sau những lần lặn đầu tiên là thời kỳ lão nói nhiều nhất bởi
lão không thể giữ trong bụng cái vẻ đẹp ngoạn mục kỳ lạ của biển sâu. Những khu
vườn đầy loài sao biển, những loài cá đa sắc, mắt to, dịu dàng bơi theo lão, những
tia sáng mờ đục chiếu nghiêng vào những hang đá bí hiểm. Lão kể những gì lão thấy
cho đám ngư dân chuyên lao động trên thuyền nghe và họ tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên
và thán phục. Lão thề rằng chưa bao giờ lão thấy tự do như khi lão ở dưới biển
sâu.
“Nhưng dưới đó bác đâu thở được?”
“Nhưng người ta có thể thở bằng mắt và bằng lỗ chân lông.”
Chưa
bao giờ lão nghe loại âm nhạc như thế.
“Nhưng dưới biển chỉ là cõi yên lặng.”
“Nhưng là cõi yên lặng có âm nhạc. Tựa như nghiều nhạc cụ cùng gởi âm
thanh trong trẻo nhất lên bầu trời.”
Tiếng
Tây Ban Nha có đặc điểm riêng. Anh thợ cày cũng thường nói như là ngâm thơ.
Ngôn ngữ tự nó sắp đặt như vậy.
Ngày
tiếp ngày, tuần tiếp tuần, tháng tiếp tháng, cứ thế mà nhiều năm rồi, vì danh dự
mà cố tìm cho được cái vò hai quai để
thay cái đã bị vở, lão Vicente trở nên hạnh phúc hơn. Mỗi ngày là một niền
hân hoan mới, một khám phá mới. Đã qua rồi cái thời bị ràng buộc bởi thời gian.
Thế nào cũng có cái gì đó để thỏa mản nhu cầu, một con cá để nướng, một ly rượu,
một miếng bánh mì, một hộp diêm. Đối với ngư dân ở đó, cuộc tìm kiếm của
Vicente đã trở thành một phần của cuộc sống trên bờ hoặc trên biển của họ. Họ
thường đối đãi với lão rộng rãi, không suy tính và bao giờ cũng sẵn sàng.
***
Họ kể
cho tôi nghe về lão Vicente cái hôm gió thổi từ Châu Phi khuấy động biển từ đáy
và làm dậy lên những ngọn sóng cao vội vã xô nhau, và tôi, cũng như họ, hướng mắt
vào đường chân trời mong tìm một chiếc thuyền nhỏ. Tôi quay sang Cha Pedro, người
chăm sóc phần hồn của giáo dân ở thị xã San Fernando, vừa tham gia với chúng
tôi.
“Cha
nghĩ thế nào, thưa Cha?” tôi hỏi. “Liệu lão Vicente có tìm được cái vò hai quai
không?”
Vị
linh mục hơi mập này đan hai tay vào nhau. Hai mắt ông cũng hướng về chân trời
nhưng dường như chẳng có gì lo lắng. Gió từ Châu Phi bắt đầu lay cái mái bằng
tre trên đầu chúng tôi.
“Này
nhé”, ông nói. “Vincent lâu nay tìm kiếm. Không phải là tìm ra cái gì, như anh
biết đấy, mà chính việc tìm kiếm mới là quan trọng. Chỉ việc tìm kiếm thôi chớ
không phải cái gì khác.”
***
Vào
một ngày năm ngoái, biển đột ngột dâng cao, nổi sóng dữ dội vì gió, chiếc thuyền
nhỏ mà lão Vicent mượn đã bị đánh dạt vào bờ.
Không ai tìm thấy lão Vicente.
Biển
động dữ dội nhiều ngày trước đó.
Thế
nhưng bọc kín trong đám rong biển và được cột chặt vào đáy thuyền là chiếc bình
hai quai của người Phê-ni-xi đã được vớt lên sau hàng thế kỷ nằm sâu dưới biển.
Cha
Pedro và những ngư dân là bạn của Vicente nhờ tôi, vì tôi biết tiếng Anh, viết
thư gửi cho ông Abraham Lincoln ở Milwaukee, Wisconsin, U.S.A. Tôi đã viết và
đã gởi đến địa chỉ đó mấy lần và lần cuối gửi cho ngài thị trưởng.
Chẳng
ai nhận được hồi đáp của ông ta.
Bực
mình vì lão già ngu ngốc đã làm vở đồ kỷ niệm của mình, người Mỹ kia đã phịa ra
cái tên để tống cổ lão, tôi đoán vậy. Tuy nhiên, người Mỹ ấy có thể từng sống ở
Milwaukee. Cũng chẳng ai biết nữa. /.
EVA-LIS WUORIO
NGUYỄN KHẮC PHƯỚC chuyển ngữ.
***
Ghi chú:
1. Nguyên bản tiếng Anh: THE SINGING SILENCE.
Trong tập WORLD’S BEST CONTEMPORARY SHORT STORIES.
Nhà xuất bản Ace Books Inc., New York, 1965.
2. Vài dòng về tác giả:
Nữ
văn sĩ Eva-Lis Wuorio (1918-1988) sinh ở Viipuri, một thành phố cổ bên bờ biển Phần
Lan, gần biên giới với Nga. Bà theo gia đình di cư sang Canada và được học hành
ở đó. Bà sống ở Toronto bằng nghề làm báo, viết văn. Sau đó, bà chuyển đến sinh
sống tại một hòn đảo thuộc quần đảo Channel, Anh quốc.
Sách
đã xuất bản: Encape If You Can, To Fight
in Silence, Venture at Midsummer, The Woman with Portuguese Basket, The Island
of Fish in The Trees, The Land of Right Up and Down …
3. Formentera là một hòn đảo nhỏ thuộc cộng đồng tự
trị Quần đảo Baleares của Tây Ban Nha. Đảo Formentera dài 19 kilômét (12 mi) và
nằm cách 6 kilômét (4 mi) về phía nam của đảo Ibiza tại Địa Trung Hải. (Theo
vi.wikipedia.org)