Ngày Báo Hiếu - Phan Minh Châu
truyện ngắn
cửa thì mấy mươi cái, xe hơi đôi ba chục chiếc, ruộng lúa thì cò bay thẳng cánh, cuộc sống trong gia đình sung túc và thừa mứa. Ông quyết định về hưu, nghĩa là không làm nữa, ông nghĩ rằng ở tuổi này ông hưởng thụ là được rồi. Ông có tất cả mười người con, trai gái đầy đủ, đứa nào cũng đã có gia đình nhưng không biết làm ăn, tất cả đều một tay ông nuôi nấng. Vợ ông qua đời cũng đã mấy năm nay, ông cảm thấy buồn và muốn đi chu du đây đó, ông khát khao muốn tìm về những người bạn cũ, những người cùng một thời khố rách áo ôm, ông quyết định tập trung con cái lại và chia gia tài cho tụi nó.
Sáng hôm
nay trùng vào ngày chủ nhật, ai cũng rãnh rang, dâu con và cả rể, ông kêu bọn
chúng lại và nói rõ tâm nguyện của mình. Đứa nào đứa nấy đều phấn khởi ra mặt,
nhìn những bộ mặt hau háu chờ chia tài sản của bọn nó ông bỗng tủi thân, ông bỗng
đâm ghét cái đám con vô tích sự của mình, ông chưa có một ngày hạnh phúc, mọi
việc trong nhà đều có người phục dịch, những lúc ông bịnh hoạn ốm đau đều phải
nhờ người giúp việc. Mấy đứa con của ông trong những lúc ông mang trọng bịnh,
chúng chỉ lướt qua đôi chút và hỏi han qua loa cho có chuyện. Đôi lúc ông tủi
thân, muốn bán mớ gia tài kếch sù và tìm đến một nơi thật xa để sống một cuộc dời
ẩn dật, nhưng vì thương con, nước mắt bao giờ cũng chảy xuống, ông không bỏ bọn
chúng được, phận làm cha làm mẹ nhắc nhở ông phải làm tròn trách nhiệm với con
cái. Sau khi đám con ông đã tập trung đầy đủ, ông quyết định chia đều số tài sản
cho bọn chúng và không giữ lại thứ gì. Phân chia xong, ông kêu thằng con trai
trưởng đến dặn dò đôi điều rồi quyết định ra đi, nhưng trước khi đi ông muón ở
với thằng con trai lớn một thời gian để chuẫn bị một số công việc cho bạn bè và
bà con, chòm xóm. Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới đó mà đã gần một năm, ông
cảm thấy mình đã già thật sự, ở không thì cũng buồn, tiền bạc thì ông đã giao hết
cho bọn nó. Tính đến nay ông đã ngót nghét gần bảy mươi rồi, ông lấy vợ năm mười
bảy tuổi, vợ ông là một người đàn bà hiền thục, đảm đang, sống với bà ấy đã để
lại nơi ông nhiều cảm thương và tình yêu sâu sắc. Đôi lúc ông muốn bước đi thêm
bước nữa nhưng lại sợ gặp phải người đàn bà không ra gì, nên thôi. Trong thời
gian gần đây ông để ý thấy hình như vợ chồng thằng con trai lớn không màng đến
ông nữa, mỗi buổi sáng ông đói thắt ruột mà có thấy đứa nào hỏi han đâu, mỗi bữa
cơm chúng dọn cho ông chút đỉnh, nhìn mâm cơm nguội lạnh với chút đồ ăn thừa bọn
chúng mới ăn xong ông đâm ra ngao ngán, ông buồn chán, những giọt nước mắt bỗng
nhiên chảy ra và tràn xuống hai gò má khô khốc, ông bật khóc thật sự. Nhìn lại
ngôi nhà lần cuối, cố gom lại bao kỷ niệm nơi căn nhà cũ, nơi ông đã xây dưng gần
năm mươi năm và bây giờ để lại cho thằng con trai lớn, ông quyết định ra đi, đi
đâu thì ông chua biết được, nhưng phải đi, không thể cứ ở mãi nơi này để chịu sự
khinh khi và ruồng rẫy của vợ chồng thằng con trai lớn, ông gom quần áo và một
số tư trang cần thiết, không có tiền, ông đâm ra lúng túng thật sự.
- Cha đi
đâu đó? Thằng con ông mới đi đâu về ghé tạt vào phòng ông.
- Chắc cha phải qua con Ba thăm nó ít hôm, ở bên này
ba nhớ mấy đứa nó quá!
- Ừ thì
ba đi đi, con thấy được đó, ba qua cô Ba chơi thời gian rồi đến chú Tư, lâu quá
không thấy ba qua mấy người trách đó. Nghe giọng điệu của thằng con trai lớn,
ông cũng đủ hiểu cái bản tính tham lam và bủn xỉn của nó rồi, nó cứ nghĩ ông
đui, ông mù không thấy được cái dã tâm của nó, chưa nói đến con vợ nó, mọt con
nhỏ đanh đá và ngu si, suốt ngày chỉ biết dúi đầu vào mấy sòng tứ sắc, đỏ đen.
- Con cho ba ít tiền...
- Đây xuống
chỗ cô Ba cũng gần mà, ba chịu khó đi bộ, tiền nong mà làm gì, mà dạo này tiền
bạc trong nhà cũng cạn, con phải bán bớt mấy sào ruộng nhưng chưa thấy ai mua.
Thôi ba chịu khó vậy.
Ông cảm
thấy đăng đắng trong cổ họng, đúng là thằng trời đánh, thánh đâm, cho nó bao
nhiêu cái nhà và mấy trăm mẫu ruộng, giờ chỉ hỏi nó ít tiền mà nó tráo trỡ như
vậy. Ông cảm thấy chân tay rã rời và tưng tức trong lồng ngực, ông phải thoát
ra khỏi ngôi nhà này càng sớm càng tốt, đồ quỉ tha, ma bắt, đồ vong ân bội
nghĩa, đồ thằng con trời đánh, thằng con bất hiếu.ông cứ lảm nhảm trong miệng nỗi
uất ức kiềm chế bấy lâu nay lại bục phát dữ dội, ông nghẹn ngào và tức tưởi,
ông sắp đổ gập xuống sàn nhà, nhưng ông cố gượng, ông phải sống, ông không thể
chết được, ông phải sống để thấy quả báo nhỡn tiền, để thấy trời tru đất diệt
thằng con mất dạy và bất hiếu.
- Thôi
cha đi. Ông quay lại tìm mấy đứa cháu nội, nhưng nhà vắng hoe, ông bước khập
khiểng ra cửa, ngoài trời vẫn đang mưa lâm thâm, bây giờ đang là đầu mùa đông,
những cơn mưa dai dẵng suốt ngày, suốt đêm, ông bổng thấy lạnh, bổng thèm khát
một bửa cơm ngon, một gia đình thân mật và một giắc ngủ thật ấm cúng, ông loạng
choạng bước ra cửa, ngoài trời mưa đang bắt đầu nặng hạt, những tia chớp giáng
xuống giữa màn đêm sâu thẳm, ông lầm lũi bước, những bước chân nặng nề và khó
nhọc, ông quay lại nhìn ngôi nhà lần cuối rồi bước tiếp, ông khênh khạng bước
đi trong cái tối tăm mù mịt. Ngoài trời mưa mỗi lúc mỗi lớn hơn. Trong tiếng sấm
điên cuồng và ánh chớp liên tục của màn đêm xám xịt. Ông bổng đỏ xuống và bất động.
- Cô Ba
ơi cô Ba. Ra mà coi ông già cô sao nè, tôi thấy ổng nằm gục ở trước xóm, có lẽ
đói và lạnh, cô đưa ông già vào giường và đốt lò than sưỡi ấm cho ổng đi, cô nấu
cho ổng chút cháo thịt, có lẽ ổng đói và lạnh.
- Thôi
được rồi, mấy người ra đi, để đó cho tui, ổng khùng hay sao mà mưa gió thế này
lại mò tới đây cho được. Có đứa nào đó không? Lôi giùm ổng vào trong góc nhà, lấy
cho ổng cái mền rách hôm trước bỏ sau xó nhà coi còn cơm nguội không? Lấy cho ổng
một bát, bỏ ổng chút ít đồ ăn còn để dành cho chó.
Đó là một
người đàn bà tròn trịa, đỏ da thăm thịt, mặt mày lòe loẹt son phấn, khoát trê
mình chiếc váy ngắn ngũn trông rất di hợm, chiếc váy hơ hớ lộ ra cái bắp đui trắng
nuốt .Đó là cô Ba, đứa con gái ra đời trong những năm tháng ông nhọc nhằn nhất.
gian khổ và cam go, ông cũng suýt phá sãn mấy lần vì những trận bão ở khơi xa
trong những chuyến hàng ngược Nam, xuôi Bắc. Nhưng hồi đó mọi tình cảm yêu
thương ông dành trọn cho đứa con gái ruột rà của mình, chỉ cần xa một ngày ông
lại nhớ, mỗi chuyến đi làm ăn xa về lúc nào ông cũng mua quà cho đứa con gái mà
có lẽ ông yêu thương nhất. Ông thiêm thiếp không biết bao lâu rồi chợt tỉnh, bụng
đói và khát, ông thèm một bát cháo nóng và một chỗ nằm kín gió, ông cảm thấy lạnh,
ông bỗng ho khù khụ, tay ôm ngực ông phều phào trong cổ.
- Nước,
cho xin chén nước!
- Lấy nước
cho ổng đi, thấy mà phát mệt, chuyên đi báo đời con cái.
Ông ngước
mặt nhìn lên thì không ai xa lạ, đó là đứa con gái mà một thời ông yêu thương hết
mực, nó có khuôn mặt hao hao giống mẹ, chỉ khác cái giọng nói, mẹ nó hiền thục
bao nhiêu thì nó chanh chua, đanh đá bấy nhiêu. Ông cảm thấy đói, cơn đói quằn
quại, hôm qua giờ ông chưa có hột cơm trong bụng, nhưng nhìn bát cơm hẩm hiu và
nguội lạnh đang nằm dưới đất thì trong lòng ông bỗng nỗi giận thực sự, trước mặt
ông không phải là hình ảnh đứa con gái ông yêu thương ngày nào mà đó là con đàn
bà thối tha dị hợm, ông gượng đứng lên và tìm túi quần áo.
- Quần
áo ông để ngoài sân đó, ăn đi, ăn xong rồi thì đi đâu thì đi, đừng lết đến nhà
tui nữa. Thấy phát ghét.
Ông cố gắng
kim hãm nỗi căm phẫn cực độ, đúng là loài rắn độc, đồ thứ con trời đánh, ông
vùng dậy thật nhanh và quay ra cửa, chụp vội túi quần áo và quơ đôi dép xẹp,
ông chay thật nhanh và không quay lại, phía sau lưng ông tiếng chó sủa ầm ỉ cọng
với giọng cười thé thé như man dại của con rắn độc, đứa con gái đốn mạt nhất mà
ông không ngờ tới. Ông quyết định thật nhanh sẽ không ghé những đứa con còn lại
làm gì nữa. đối với bọn nó ông đã thừa hiểu dã tâm của từng đứa, bọn nó chỉ biết
có tiền, còn lại dù ông là cha đẻ của bọn nó thì chúng cũng chẳng coi ông ra
gì. Ông quyết định đến nhà bạn ông thằng bạn nối khố đã lâu rồi không gặp, nó ở
cách xa ông gần trăm cây số, ông nhớ lờ mờ nó hành nghề thuốc bắc, mấy năm trước
ông có ghé nhà nó chơi Ông bạn già có mời
ông khi nào rãnh rỗi ghé ổng ở chơi dăm ba tháng, ông bạn thuốc bắc còn nói với
ông rằng, không phải ngại ngùng gì cả, bạn bè được gặp nhau và hàn huyên tâm sự
thì vui lắm rồi. Nghĩ đến đó ông cảm thấy phấn chấn hơn phần nào,đến đó may ra
ông có thể kiếm được việc làm tử tế và có được bửa cơm đàng hoàng hơn.
Phải mất
hơn một ngày ròng rã ông mới đến nơi, ông phải bán đi chiếc nhẫn cưới mà lúc
nào ông cũng khư khư bên mình, ông không dám đeo nó trong tay vì sợ những đôi mắt
cú vọ của đám con khốn nạn. Nhà bạn ông nằm giữa lòng thành phố. Đó là một tiệm
thuốc bắc tương đối lớn. Nhìn tấm bảng hiệu AN SINH ĐƯỜNG to đùng được mắt ngay
ngắn trên tầng ba tòa nhà ông cảm thấy yên tâm hơn. Đúng là đây rồi, ông thở
phào nhẹ nhỏm và đưa tay gõ cửa.
Một cái đầu
ló ra, với đuôi tóc dài và gương mặt non choẹt.
- Ông
tìm ai?
- Có ông
Năm Kha ở nhà không?
- Dạ có,
mời ông vào!-.Cậu bé đưa ông vào trong phòng khách được bày biện sang trong. Dưới
bóng đèn lờ mờ ông nhìn thấy xung quanh cơ man là thuốc, những bó lá cây tươi để
dành làm thuốc chất ngỗn ngang kín cả con đường ra vào, trên kệ tủ các loại rễ,
củ, và thuốc bào chế sẵn tản hương thơm ngợp cả căn phòng nơi ông đang ngồi đợi.
- Xin hỏi
ai vây?
- Tôi
đây mà, Tư sông nước đây, ông còn nhớ tôi không?
- Nhớ chứ...
nhớ chứ. Anh đến sao không báo trước, con xuống pha cho ông bình trà, nhớ đun
nước cho sôi nhé!
- Đứa nhỏ
nào vậy?
- À...
thằng nhỏ học nghề, vừa học nghề vừa giúp việc, cha nó mang gởi mấy tháng nay rồi.
- Bà nhà
đâu?
À... bà
nhà tôi về quê chơi với mấy cháu được mấy hôm rồi, mấy đứa đích thân xuóng đây
rước bà nên bà phải đi chứ không thì tụi nó lôi kéo dữ quá.
- Ừ thì
phải về quê thăm con cái chứ, ông thật là có phước, con cái đầy đàn đứa nào
cũng hiêu thuận.
- Mỗi
người đều có một số phận anh à. Anh dạo này ra sao rồi, mấy đứa nhỏ chắc thay
nhau chăm sóc cho anh đàng hoàng, tử tế chứ?
Nghe ông
bạn già hỏi vậy, ông Tư bỗng mủi lòng, mới cách đây chỉ vài ngày ông đã phải ngậm
đắng nuốt cay với đám con không ra gì rồi. Nghĩ đến đó ông bỗng trào nước mắt,
những giọt nược mắt xót xa cho cuộc đời bất hạnh của mình.
- Ủa...
Sao ông lại khóc.
Ông Tư
bèn đem toàn bộ câu chuyện gia đình kể cho người bạn già nghe, với một giọng trầm
buồn...
- Câu
chuyện là như vậy anh Năm à. Tôi tính ở lại chơi với vợ chòng anh một thời gian
rồi tính sau.
- Được mà...
anh cứ ở đây, muốn ở bao lâu thì ở, mình là cánh bạn bè mấy chục năm nay, anh
hiểu tôi nhiều mà tôi cũng hiểu anh, trước đây không nhờ anh giúp đỡ thì tôi
cũng đâu có ngày hôm nay.
Đứa bé
giúp việc cũng vừa mang trà lên, ông Năm rót một chén cho bạn và một chén cho
mình, nâng chén trà ông bạn già mới đưa, ông Tư cảm thấy có một sự ấm áp ngọt
ngào như chưa bao giờ có, mặc dù vậy ông cũng đang tính toán cho mình trong thời
gian tới, phải làm gì để kiếm sống, để có tiền, với sức khỏe ông như bây giờ
thì làm được gì, nhưng cũng phải đi làm không thể để bạn bè khinh khi mình được.
Nghĩ đến đó ông bổng cảm thấy vui hơn. Rồi thời gian cũng trôi qua thật nhanh,
ông Tư không làm gì cả, ông lẫn quẫn phụ với ông bạn già bốc thuốc, ông Năm nhờ
gì ông làm đó, lúc thì đi phơi những bó lá thuốc tươi, lúc thì gói thuốc cho
người bệnh, nói chung việc gì ông cũng làm tháo vát, nhưng ở không ngồi rồi ông
cũng đâm ra ngại ngùng và chan nản, ông quyết định kiếm chuyện để làm chứ không
thể ăn bám ông bạn già tháng này qua năm nọ được, ông đã suy nghĩ rất kỹ và quyết
đình nói với ông Năm.
- Ông
Năm à.
- Có
chuyện gì vậy anh?
- Ông bổ
thuốc cho tôi đi bán đi.
- Anh cứ
nghĩ ngơi đi, từ từ hẵn tính.
- Ăn ở
không chán lắm. Ông cứ bổ thuốc cho tôi đi bán, tiền lời tôi góp tiền cơm cho
ông, còn lại tôi muốn tiêu gì thì tiêu, nhận tiền của ông hòai tôi ngại lắm.
- Thôi
được! Có gì thì mai tính, bây giờ ông gói cho tui ít thuốc chút xíu nữa khách
hàng đến lấy.
Đêm đó
ông Tư trằn trọc mãi không sao ngũ được, ông mong sao cho trời mau sáng để thực
hiện được ước mơ của mình, tiếng gà vẫn còn gáy xa xa, không biết bây giờ là
canh mấy, ông cảm thấy buồn nẫu ruột, ông chợt nhớ nhà, nhớ mấy đứa cháu nội,
cháu ngoại, không biết giờ này chúng có nhớ đến ông không, nhưng nghĩ lại mình
đâu còn nhà nữa đâu mà nhớ, ông cảm thấy buồn thấm thía, một nỗi buồn thắt ruột,
nghĩ đến người vợ quá cố không biết trong đám con ông có đứa nào lo nhang lo
khói hay không, nghĩ đến đó ông bỗng thiếp đi lúc nào không biết, trời vẫn còn
tối như bưng, xa xa vọng lại tiếng chó tru não ruột, tiếng xào xạc của gió và
tiếng lách tách của cơn mưa đầu mùa, trong giấc mơ, ông mơ thấy mình gặp lại
người vợ hiền thục năm nào, được trỡ lại mái nhà xưa nơi một thời ông bỏ công
xây dựng, được hưởng cái không khí ấm áp trong lành và tràn đầy hạnh phúc. Gió
ngoài trời lớn hơn và mưa cũng nặng hạt hơn ông ú ớ trong giấc mơ:
- Mình
ơi, mình ơi!
Giữ đúng
lời hứa, khi ông Tư ngũ dậy vệ sinh và ăn sáng xong, đã thấy ông bạn già ngồi
chờ trên bộ trường kỷ với bình trà thơm lựng, kề bên là một giỏ thuốc đã được
gói sẵn một cách cẩn thận.
- Uống
trà đi nào, rồi chúng ta nói chuyện, làm miếng đường phèn cho ấm bụng.
- Ông
chuẫn bị thuốc cho tôi chưa?
- Xong hết
rồi đây. Đây là một nghìn viên thuốc DƯỠNG NHI được bào chế rất công phu được
vo thành tể và rất dễ uống, loại thuốc này giúp cho con nít mau lớn và khỏe mạnh,
giá cả cũng vừa túi tiền, ông chỉ cần bán gần gần đây thôi không phải đi đâu
xa, dù bán hết thuôc hay còn, khi trời gần tối ông phải liệu mà về nhà ăn cơm
và nghĩ ngơi, lỡ có lạc đường thì hỏi thăm, ông chỉ cần nói tới tên tôi thì ai
cũng biết.
- Được rồi,
cảm ơn ông nhiều, tôi sẽ nhớ lời ông dặn, bây giờ tôi đi được chưa?
- Uống hết
bình trà đã rồi đi, nôn gì, trời vẫn chưa sáng hẵn.
- Thôi
được rồi, ông cứ để tôi đi, có gì chiều gặp lai, mà giá cả thế nào không nghe
ông nói?
- Giá
thuốc đã có ghi bên ngoài bì thuốc, ông cứ nhìn vào đó mà bán.
Ông Tư
chào tạm biệt ông bạn già rồi mang bì thuốc lên vai, ông nhìn ra ngoài trời, vẫn
chưa sáng hẵn, bắt đầu từ nơi nào đây? Ông tự hỏi và quyết định đi về cuối phố
nơi lúc nhúc ánh đèn và đã có bóng người qua lại, con đường vẫn còn sũng nước của
cơn mưa đêm hôm, có những chỗ ổ voi, ổ gà lồi lõm, ông suýt hụt chân té mấy lần,
cẩn thận hơn ông dò từng bước một, miệng tập ê a những câu rao bán mà không ai
chỉ cả.
- Thuôc
dưỡng nhi đây... thuốc dưỡng nhi đây... Tiếng rao của ông cứ vậy lan ra trong
cái buổi sáng iêng ắng của một ngày đầu thu buồn bã, ông cảm thấy lạnh, mặc dù
đã hai ba lớp áo, ông hít một hơi dài và cố gắng băng qua mấy con phố còn lại,
tiếng rao của ông xa dần xa dần rồi mất hút nơi cuối phố.
Chiièu
hôm ấy ông trở về rất sớm, số thuốc bạn ông đưa đã bán hết và bán hết rất
nhanh, người ta còn dặn ông ngày mai nhớ đem thêm cho họ, ông thấy vui trong
lòng, ông cảm thấy việc kiếm tiền ở đây không có gì là khó, thuốc bạn ông chế
ra là loại thần dược hay sao mà người ta dặn mua nhièu lắm, ông cảm thấy phấn
khởi vô cùng. Giao hết số tiền bán thuốc cho ông bạn già ông không quên dặn:
- Ngày
mai ông nhớ làm thêm nhiều nhiều một chút, thuốc ông hay quá nên người ta dặn
cũng nhiều.
- Được rồi...
được rồi. Kiểm số tiền ông Tư vừa đưa và nhìn khuôn mặt tươi rói của ông bạn
già, ông Năm cảm thấy thương người bạn mình không sao tả xiết.
- Ngày
mai ông không cần phải đi bán nữa, một nghìn viên tể tôi đưa ông đã bán hết, số
tiền lời ông đủ trả tiền cơm cho tôi trong vòng một tháng, số dư còn lại ông bỏ
túi mà tiêu lặt vặt, khi nào hết tiền tôi sẽ lấy thuốc cho ông bán tiếp. Nghe
ông bạn già nói vậy ông Tư cũng đành chấp nhận, với lại sau một ngày bán thuốc
do ông chưa từng quen đi bộ nhiều nên cặp chân ông cũng đã mỏi nhừ, ông cũng muốn
nằm nghĩ một chút.
- Thôi vậy
cũng được, tháng sau tôi đi bán lại.
Thời
gian thắm thoát thoi đưa, bốn tuần lễ trôi qua thật nhanh, liệu chừng tiền cơm
cũng gần cạn, ông Tư nhắc khéo ông bạn già:
- Hết một
tháng rồi, mai ông chuẫn bị thuốc cho tôi đi bán tiêp đó nghen, ăn rồi ở không
chán quá.
- Được rồi,
đã chuẫn bị thuốc cho ông rồi đây, mai ông cứ việc lấy đi mà bán, đây là loại
thuốc mới cũng là loại thuốc bổ, nhưng không dùng cho trẻ em mà dùng cho người
già, lớn tuổi, giá cả đã có ghi ngoài phong bì, đợt này tôi chỉ làm cho ông năm
trăm viên bán thử, nếu bán được tôi sẽ làm cho ông bán tiếp, giá cả thì có rẽ
hơn loại thuốc trước, ông cứ vậy mà bán.
Sáng hôm
đó ông Tư dậy thật sớm, chuẫn bị đâu đó đầy đủ, gọn gàng rồi quảy nãi thuôc ra
đi, ông đi suốt cả ngày mệt lữ, rao gần đứt cuóng họng mà chỉ bán được mây chục
viên. Trời cũng đã gần tối ông cố gắng đi thêm vài con phố nữa vẫn không thấy
ai mua, ông quyết định quay về không bán nữa. Thấy ông Năm Kha đang ngồi uống
trà và cười tủm tỉm khi nhìn thây ông, ông bổng đỏ quạu:
- Sao
ông không đưa thứ thuốc hôm trước cho tôi bán, thuốc này không ai mua.
- Ông
bình tỉnh đi ngồi xuống đây uống nước, bán không được chứ gì? Tôi cũng biết trước
thuốc này không ai mua nhưng vẫn làm để ông bán thử, ông có biết tại sao không?
Cha, mẹ mua thuốc nuôi con chứ con cái ít ai nuôi cha mẹ, thôi đã vậy rồi ông cứ
nghĩ ngơi đi có gì ta tính tiếp. Nhìn khuôn mặt tiu nghỉu của ông bạn già ông
Năm Kha không dấu hết nỗi băn khoăn và ái ngại.
Cứ vậy,
thời gian thắm thoát trôi qua đã gần tám tháng, ông Năm Kha không làm thuốc cho
ông Tư đi bán nữa, dạo này sưc khỏe ông Tư cũng không còn tốt, những cơn ho khù
khụ cả đêm trong thời gian gần đây báo cho ông Năm biết một điều không lành. Với
tay nghề mấy chục năm nay ông Năm thừa hiểu rằng ông Tư già bạn ông đang mắt phải
một chứng bịnh hiểm nghèo, đó là ung thư phổi, căn bịnh quái ác đã cướp đi sinh
mạng biết bao người, ông cũng cảm thấy lạ một điều, hơn tám tháng trời kể từ
ngày ông Tư bỏ nhà ra đi đến nay không thấy con cái ông tìm kiếm gì cả, ông chợt
cảm thương cho thằng bạn già xấu số của mình. Mặc dù thuốc men đầy đủ nhưng ông
Tư không qua khỏi sau đó ít ngày, làm ma chay và hỏa táng cho ông Tư xong ông
Năm Kha vẫn lập một bàn thờ cho bạn trong nhà và hương khói đầy đủ. Ông quyết định
tìm về quê bạn để báo tin cho con cái ông Tư biết để liệu bề rước về thờ cúng.
Phải mất
đến hai ngày sau ông Năm Kha mới tìm được nhà người bạn cũ. Căn nhà không còn
như xưa, nơi đây mấy năm trước ông có ghé chơi mấy lần, ông thích nhất là khu vườn
với đủ các loài hoa lạ mà ông Tư mua tận các nơi đem về, nay nhìn lại khu vườn
tiều tụy của người bạn cũ ông Năm bỗng rơi nước mắt, ông cũng thừa hiểu trong
nhà này ngoài ông Tư ra thì không có ai yêu hoa cả và do thiếu bàn tay chăm sóc
nên cả vườn hoa đẹp mới ra nông nỗi này. Tìm được thằng con trai lớn của ông Tư
cũng không quá khó, một sòng mạt chượt sát phạt nhau cả ngày cả đêm, phía bên
kia là một sòng bạc khác, kẻ ngồi, người nằm khói thuốc lá bay mù mịt, mùi oi nồng
của thuốc lá, mùi tanh tưởi của những cơn ói mửa do bia rượu khiến ông Năm Kha
phải lợm giọng. Ông kêu thằng con trái lớn đến gần và kể sơ qua cái chết của
ông Tư trong những năm tháng ở tạm nhà ông và ông cũng đề nghị thằng con trai lớn
nên tập trung anh em lại để đến nhà ông và chuyễn bàn thờ về mà thờ cúng cho
tròn đạo hiếu. Ông Năm Kha còn nhăc thêm rằng, ngày cha chúng bay chết có gởi
cho ông một chiếc hộp, trong đó đựng gì thì ông không biết nhưng cha bay có căn
dặn hảy trao chiếc hộp này lại cho đứa nào mà ông Năm Kha cảm thấy hiếu thảo nhất.
Nghe xong câu chuyện thằng con trai lớn ông Tư và con vợ đỏm đáng không có chút
gì là xúc động, chúng bảo ông Năm cứ về trước rồi bọn chúng thu xếp công việc rồi
đến sau. Mãi đến hai hôm sau ông Năm Kha mới thấy đám con của ông Tư tới, đứa mang
hoa, đứa mang bánh trái, lủ khu lủ khủ, với khuôn mặt tỏ ra đau đớn và buồn rầu
bọn chúng thi nhau gào khóc trước bàn thờ ông Tư. Nhìn những bộ mặt ây, những
con người ấy ông Năm Kha vẫn thừa nhận ra cái bộ mặt bỉ ổi và gian tham của bầy
con bất hiếu, của những đứa con chẳng ra gì và cứ vậy suốt ba ngày ba đêm ông
Năm Kha không còn chịu nỗi lời khóc than kể lể, ông kêu thằng con trai lớn của
ông Tư lại dặn dò:
- Cha của
con trước khi mất đi có dặn bác trao chiếc hộp này cho đứa nào mà bác thấy hiếu
thảo nhất, nhưng qua mấy ngày nay bác thấy đứa nào cũng tốt, vậy tụi con mang
bàn thờ của ba về thờ cúng cho tử tế và ba năm sau tụi con trở lại đây bác sẽ
trao chiếc hộp cho đứa nào mà bác cảm thấy chu toàn hương hồn cho cha nhất.
Nhận cái
bàn thờ từ nhà ông Năm Kha cả bầy con ông Tư lục đục kéo về, đứa nào cũng lo
chăm sóc bàn thờ chu đáo, khóc loc ỉ ôi để cho ông Năm Kha thấy được sự hiếu để
của mình. Cũng sau đó chừng một năm ông Năm Kha cũng mắc bịnh qua đời. Khi bầy
con của ông Tư đến xin nhận chiếc hộp thì chỉ thấy thằng con trai út lúc nào
cũng bưng mặt khóc và không thấy nói năng gì, vì nó thừa hiểu rằng bên trong
chiếc hộp chỉ là một nhúm tro tàn, đó chinh là hài cốt của ông Tư khi mang đi hỏa
táng.
Phan
Minh Châu