Những Mảnh Đời Trôi Giạt - Song Nhị
truyện
Năm 1975, Oanh học xong
lớp Mười Hai. Cầm tờ chứng chỉ tốt nghiệp, tương đương với văn bằng Tú Tài toàn
phần của thập niên sáu mươi, lòng nàng mừng vui vô hạn. Nhưng cũng ở thời điểm
đó, gia đình nàng bước qua khúc ngoặt của định mệnh. Miền Nam đổi chủ. Sài Gòn bàng hoàng
trong âu lo, ngơ ngác và tán loạn. Cha nàng đã vào trại tập
trung cải tạo, bị
đày ra núi rừng Việt Bắc. Tiẹâm buôn của mẹ nàng bị tịch thu. Các em nàng phải
bỏ học. Oanh cầm lá đơn xin thi vào đại học, bất cứ nơi nào người ta cũng không
nhận. Lý do của sư từ chối chỉ được hiểu ngầm, nhưng ai cũng biết, cha là sĩ
quan chế
độ cũ, gốc Bắc Năm Tư, mẹ là “tư sản bóc lột,” những thứ tối kỵ đối với chế độ
hiện tại.
Oanh nổi tiếng là một
thiếu nữ đẹp và diu hiền. Nàng sinh ra và trưởng thành trong một gia đình giàu
có, thuộc giới thượng lưu của xã hội miền Nam . Tuy vậy, Oanh lại mang một bản
chất nhún nhường, khiêm tốn, giàu lòng nhân hậu. không bao giờ người ta thấy
nàng có thái độ lạnh lùng, kênh kiệu như một số tiểu thơ đài các cùng trang
lứa.
Bà Đỗ Quỳnh Oanh từ một
thương gia giàu có, tiếng tăm, bỗng chốc tán gia bại sản. Bà đã cố chống chọi
với mọi hoàn cảnh, mọi tai họa để nuôi nấng ba đứa con và để ngóng chờ trong hy
vọng ngày chồng bà được thả về.
Oanh khi nào cũng bên
cạnh mẹ. Nàng là đứa con và cũng là người bạn tinh thần, luôn luôn vỗ về an ủi
mẹ. Có thể nói, cả hai mẹ con bà Quỳnh Oanh đều cảm thấy nếu thiếu vắng một
người thì người kia không thể sống nổi. Nhưng lẽ đời, nước mắt chảy xuôi, người
mẹï nào mà không sẵn sàng có những hy sinh cao cả dành cho con cái. Trong hoàn
cảnh thế cùng sức kiệt, vì nghĩ về tương lai con cái về sau, bà Quỳnh Oanh đã
quyết định gánh vác hết mọi công việc, mọi hậu quả, chấp nhận mọi cảnh ngộ,
chấp nhận cô đơn, đè nén tình cảm nhớ thương, lo sợ dằn vật và thu xếp cho con
cái vượt biên.
Từ nhỏ đến lớn Oanh sống
trong vòng tay yêu thương và hơi ấm của cha mẹ, của gia đình. Chưa bao giờ nàng
thoáng có ý nghĩ là sẽ phải rời xa tổ ấm đó. Nhưng bao năm rồi cha nàng đã đi
biền biệt sau cái thông báo của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định kêu gọi các
quan chức chính phủ Sài Gòn đóng mười ba nghìn năm trăm đồng tiền ăn, tập trung
“học tập” trong một tháng. Mỗi năm gia đình nàng nhận được vài ba lá thư viết trên
giấy học trò, nội dung tẻ nhạt, khô khan. Nàng đâu biết được cảnh rừng thiêng
nước độc nơi cha nàng đang thụ hình mà cái địa chỉ trên góc bì thư kia là một
hàng ám số và ám tự: TD613 YB/ 03. Nàng đâu biết được đã ba năm rồi cha nàng đã
chịu đựng biết bao những nhụïc hình cay đắng trong cảnh trầm luân nơi địa ngục
trần gian có thật của thiên đường XHCN. Nàng cũng đâu biết được những lá thư
kia, cha nàng đã phải chép đi chép lại mấy lần khi qua tay kiểm duyệt của cán
bộ quản giáo, cán bộ Giáo Dục, cán bộ an ninh trình đô lớp ba trường làng,
trước khi bưu điện mang đến cho gia đình nàng.
Cũng ba năm rồi, các em
nàng lêu bêu nơi các công trường thủy lợi. Mẹ nàng với tuổi bốn mươi lăm mà
trông già nua tiều tụy. Nàng không bao giờ muốn xa rời mẹ, dù chỉ một ngày.
Nàng không bao giờ đành lòng rời bỏ hai đứa em trong lúc này. Nàng đặt hết
trông cậy và tin yêu vào cha nàng. Nàng hy vọng mãnh liệt vào giây phút ông
được thả vềø. Trong khổ đau tăm tối của cuộc đời trước mặt nàng vẫn vẽ cho mình
nhiều hy vọng và tin tưởng ở ngày mai.
Nhưng rồi, cái gì tới đã
tới, ngày đi đã định. Ngày Giờ và điểm hẹn đã kề. Lòng Oanh rã rời, bịn rịn.
khi chia tay, mẹ nàng cúi xuống hôn lên mái tóc con gái. Nàng choàng tay ôm mẹ,
khóc tức tưởi, nghẹn ngào. Nàng nói trong nấc nghẹn:
- Xin ba mẹ tha thứ cho
con.
Rồi nàng đứng lên, quay
lưng bước vội vàng trong đêm tối như để trốn chạy người mẹ hiền
yêu dấu, như để chạy trốn nỗi lòng se thắt và sự mềm yếu có thể ngã quỵ của
chính mình.
Có ai ngờ định mệnh oan
nghiệt đã an bài. Chuyến đi ấy đã thất bại. Trên ba mươi người bị bắt. Một số
người có mang theo vàng bạc đút lót thì được thả ngay nơi “bãi đáp”. Có người
được cố ý cho “chạy thoát” trên đường giải về trụ sở công an, như ông Nguyễn
Tâm, nguyên Hiệu Trưởng Trường Phan Bội Châu, Sài Gòn, sau khi đã cởi chiếc
nhẫn một chỉ vàng, cởi đồng hồ đeo tay và cởi cả chiếc quần treillis, loại quần
xanh lá rừng “lính ngụy” đút lót cho viên công an áp giải, một cán bộ cốt cán
của cách mạng. Những người không tiền đút lót, mua chuộc, tất cả đều bị giải từ
Bà Rịa về khám Chí Hòa để điều tra, khai báo, tìm cho bằng được người tổ chức
có túi vàng thu gom từ những “can phạm” chối bỏ thiên đường XNCN. Các can phạm
còn phải làm “tự kiểm” nhận tội với cách mạng và khôn khéo lựa chọn cán bô đến móc nối với gia đình, để
được tha sớm.
Một năm sau, tất cả
những người không có “thế lực kim tiền” cứu gỡ đều bị chuyển lên trại tù Đồng
Phú, tỉnh Sông Bé. Trong số đó có Oanh. Khi Oanh và đoàn “khách mới” nhập trại
thì trại Đồng Phú đã có sĩ số trên ba ngàn người, đủ mọi thành phần, tuổi tác,
già trẻ, nam, nữ, từ một trí thức, giáo sư đại học đến một thằng bé móc túi,
mười ba tuổi đầu. Tất cả được giam chung lẫn lộn dưới một “mái trường” với cái
tên thật kêu, thật đẹp: “Trường Phổ thông Cải Tạo Công Nông Nghiệp”.
Oanh cùng ba cô bạn được
biên chế vào đôi số 13 toàn nữ. Đội Trưởng là một người đàn bà trên 30 tuổi, có
biệt danh từ ngoài đời là nàng Chôm. Nàng Chôm ở đây từ ngày mới dựng trại,
tháng 10.1977. Sau bốn năm trưởng thành trong làng chôm chĩa, vào trường nhờ
trao đổi kinh nghiệm, mánh khóe cùng các “môn phái” mà ngón nghề càng thêm tinh
xảo. Nhờ “sống lâu lên lão làng”, nhờ mồm mép “lợi khẩu”, nhờ vốn dĩ là dân
chịu chơi, rút kinh nghiệm vì chơi không đẹp với cán bộ quản lý Thị Trường nên
bị giựt mất thúng hàng rong, bị đạp ngã xuống lề đường và bị bắt vào đây. Vào
đây nàng Chôm luôn luôn “chiều lòng” các cán bộ. Nhờ đó chẳng bao lâu nàng nổi
bật trong hàng chức sắc, khét tiếng là tay hung thần của bất cứ đội tù nữ nào
do ả làm đội trưởng.
Sau ba tháng “học tập”
không chịu nổi những cực hình mang đủ tính chất hành hạ của “Trường phổ Thông
Cải tao Công Nông Nghiệp”, Oanh cùng hai người bạn gái khác đã trốn trại. Hai
người bạn bị bắt lại. Oanh lẩn trốn trong rừng gần mười ngày, không có lương
thực, đói lạnh. Cuối cùng nàng đã kiệt sức, nằm chết dưới một gốc cây.
**
Câu chuyện trên đây được
Trúc Vân kể cho Nguyễn Lê nghe trong một buổi toàn trại lao động XHCN, đào
mương thủy lợi. Nguyễn Lê là một trong những người “khách” mới, vừa được chuyển
một trại tù khác tới. Lê là bạn học với anh của Trúc Vân ở đại học Văn Khoa.
Trúc Vân sửng sốt khi nhận ra Lê trong đám tù mới tới. Lợi dụng buổi lao động
đông người nhốn nháo, Trúc Vân gặp Nguyễn Lê để thăm hỏi chuyện trò.
Kể hết câu chuyện về
Kiều Oanh cho Nguyễn Lê nghe, Trúc Vân cúi xuống, giấu những hàng lệ lăn tràn,
sợ xung quanh để ý. Đợi cho Trúc Vân hết xúc động, Nguyễn Lê hỏi:
- Thế thì gia đình của
Oanh đã biết tin Oanh chết chưa?
Trúc Vân nghẹn ngào:
- Có lẽ chưa anh ạ. Bạn
giám thị chỉ báo cho gia đình là Oanh trốn trại và coi như mất tích, mặc dù
trại đã tìm thấy xác chị ấy. Mấy lần ra nhà thăm nuôi, em trông thấy mẹ của
chị ấy ngồi cuối dãy bàn, nhưng nội quy cấm tù tiếp xác với người đến thăm. Hơn
nữa bọn em không nỡ cho gia đình bác ấy biết cái tin đau buồn đó.
Nguyễn Lê ngồi đờ đẫn,
thở dài, mắt dõi nhìn về phía cánh rừng trước mặt. Một con quạ đen lao tới rượt
đuổi một con diều hâu, con diều hâu nghiêng cánh, chao mình rồi bay vút đi như
trốn chay. Nguyên Lê liên trưởng đến cái nhãn hiệu con ó và cuộc chiến Việt Nam .
Giọng nói của Trúc Vân
cắt ngang ý nghĩ của Nguyễn Lê:
- Anh bị bắt vì tội gì?
Trước khi đến đây anh đã ở những trại nào?
- Anh bị kết tội là “đầu
sỏ trong nhóm trí thức, tư sản Sài Gòn tổ chức vượt biên và liên lạc với các
thế lực phản động ở nước ngoài”. Sự thật, anh mới có ý định khi rủ một số người
quen, tìm phương tiện để ra đi, và chỉ mới nói ra ý định đó. “Tai vách mạch
rừng” nên anh bị bắt. Anh bị đưa vào trại Phan Đăng Lưu và bị ở biệt giam, cùm
hai chân mất bảy tháng mười sáu ngày.
- Sao anh bị cùm lâu
thế?
- Tại anh cãi lý với họ.
Nói chính xác hơn là anh tranh luận với cán bộ chấp pháp.
- Sao anh tranh luận với
họ làm gì?
- Lúc đó anh cứ nghĩ
tranh luận để làm sáng tỏ vấn đề khi họ kết tội anh một cách vô căn cứ. Họ lại
giảng cho mình những bài học chính trị một chiều, ngớ ngẩn nhất. Anh hối hận đã
ngây thơ, nhưng nghĩ lại còn biết bạo nhiều người trước kia sống phè phờn nhờ
vào tiền bạc và lòng tin cậy của người dân mà họ, còn ngây thơ đến độ ngây ngô
đem niềm tin cậy đó bán rẻ cho đối phượng. Anh chấp nhận vì ít ra mình không
hèn.
- Anh có bị họ đánh
không?
- Không, anh không bị
đánh, nhưng cách của họ là khi yếu lý lẽ, khi “chính nghĩa” của họ bị lật tẩy,
họ mặc cảm bị xúc phạm nên họ trả thù. Đưa vào phòng kỷ luật, cấm thăm nuôi,
cấm viết thư, cấm nhận thư gia đình, giảm mức ăn, biệt giam, tăng án v.v...
Nói xong, Nguyễn Lê quay
sang hỏi lại Trúc Vân:
- Cô ở đây đã lâu, cô
thấy Ban Giám Thị trại này thế nào?
- Nơi nào cũng vậy anh
ạ. Trại nào cũng dưới một hệ thống của Cục Quản Lý Trại Giam. Người thì cũng có
người tốt, kẻ xấu. Ở trại này có ông Lem thường ưa ăn uống của nữ tù nhân, từ
một tô mỳ gói đến một ly nước chanh. Nghĩ cũng tội nghiệp, Họ cũng đói thèm,
thiếu thốn. Ông Tốn thì hay nhờ người nhà mình mua dùm đồ khi đến thăm nuôi
mang vào rồi “quên” trả tiền. Đám cấp dưới thì phần đông rất hống hách. Họ đánh
đập tù nhân vô tội vạ, họ chửi bới tù nhân khi họ không vừa lòng. Hôm nọ có
thằng bé trong đội thiếu nhi phạm pháp đi nhổ cỏ, bẻ một trái bắp mà bị cán bộ
En đánh đến ngất xỉu.
Trúc Vân xoay người dùng
lưỡi cuốc chim cạy lên một tảng đá ong rồi nói tiếp:
- Dẫu sao ở trại này
cũng dễ chịu hơn trăm lần ở các trại tạm giam, như ở trại Mạc Đỉnh Chi, quận
Một. Ở đó, quả thật là địa ngục trần gian. Ngoài chế độ quản lý hà khắc, còn bị
cái nạn “đại bàng”, bởi một loại băng đảng mà họ tự nhận là “hung thần thời
đại”. Đám này là những tay phạm tội hình sự do Ban Giám Thị cử ra dưới cái chức
dạnh Đội trưởng, Trật tự, Thi Đua... Chủ trương của họ là “dĩ độc trị độc,” lấy
tù trị tù, dùng tù nhân đàn áp tù nhân, dưới sự chỉ đạo của các cán bộ. Đám này
có quyền sinh sát trong tay. Chúng lấy bớt hoặc tước đoạt hết mọi thứ thức ăn,
đồ đạc gia đình gửi vào. Chúng sẵn sàng trừng phạt đủ mọi thứ roi đòn tàn bạo
với bất cứ ai phản đối các hành vi của chúng.
Nguyễn Lê đã từng ở trại
tạm giam Phan Đăng Lưu, đã từng bị nhốt xà lim, đã nếm đủ mọi mùi vị cơ cực
nhất, nhưng khi nghe Trúc Vân Kể anh cũng cảm thấy rờn rợn, xúc động đến rùng
mình.
**
Hai tháng sau, kể từ
ngày gặp Trúc Vân trong buổi lao động XHCN, đào mương thủy lợi, cả trại tù Đồng
Phú xôn xao khi nghe tin Nguyễn Lê đã trốn trại. Toàn Thể Ban Giám Thị và hơn
ba trăm công an gác tù nhốn nháo chạy ra chạy vào. Lịch trình lao động của tù
nhân không thay đổi, nhưng số công an súng dài gác tù chỉ còn lại một người
kiêm luôn nhiệm vụ “quản giáo”. Nhiều toán võ trang truy nã được thành lập,
chia thành các hướng vào rừng lùng sục. Một số cải trang thường dân giả dạng
khách đi xe đò về Sài Gòn dò la tin tức, mạnh mối. Khu vực gia cư của thân
nhân, họ hàng Nguyễn Lê do công an mỗi phường bố trí bám sát theo dõi hai mươi
bốn giờ, suốt ngày đêm. Toán truy nã có bí số Z3 gồm ba người do Hùng Lé dẫn
đầu, vô tình lại đi sát mục tiêu nhất.
Từ lúc vượt thoát, thoát
khỏi hàng rào vòng cung canh gác của trại Đồng Phú, ban ngày Nguyễn Lê tìm hang
hốc, lùm cây dùng lá khô, cây cỏ phủ lấp lên người để núp. Tối đêm thứ ba, sau
ba ngày vượt bộ, thiếu ăn, thiếu ngủ, Nguyễn Lê đã mệt mỏi, đuối sức. Anh quyết
định tìm nơi an toàn ngủ một đêm, sáng sớm tiếp tục tìm hướng vượt rừng, thay
vì lần theo đường lộ. Khoảng mười giờ đêm, bỗng đâu như có bàn tay người nào vỗ
vào vai anh, bảo thức dậy. Anh mở mắt. Hai vệt đèn từ đàng xa rọi lại, chiếu
xéo qua chỗ anh nằm cách mấy mét. Rồi một vệt sáng quét thành vòng cung. Vệt
sáng lại quét xéo theo hướng cũ, mỗi lúc môt gần. Anh nằm im bất động. Tiếng
sột soạt gần thêm. Vệt sáng xa dần về phía trước. Nguyễn Lê nghe rõ tiếng Hùng
Lé:
- Tao không tin là nó đã
trốn thoát. Nó vẫn ở trong khu rừng này. Không lẽ mình chịu thua nó.
Tiếng “Dữ
đầu bò” đáp lại:
- Có thể nó đợi mình
chán nản, rút về rồi nó mới đi. Biết đâu nó đã đi thoát rồi. Mà mình chịu thua
nó có sao đâu. Tụi nó đâu làm hại gì mình. Tao khổ quá rồi. Ba đời ở đợ, ba đời
làm mướn mới được khoác cái áo công an. Hãnh diện đéo gì. Ngày vác súng theo
tụi nó dạo khắp ngoài đồng tám tiếng, đêm về ôm súng gác ngoài phòng giam,
nghe tụi nó cười nói, ngửi mùi thức ăn thơm lừng trời do gia đình tụi nó tiếp
tế... hết chịu nổi. Mày hăng hái cứ tiến lên đi, bắt được thằng phạm này sẽ
được bình bầu chiến sĩ thi đua, chiến sĩ tiên tiến kì này. Tao...
Dữ đầu bò bỏ lửng câu...
Hùng Lé quát lên giận dữ. Âm thanh sắc nhọn, nặng trịch, lạc lõng giữa rừng
hoang trong đêm vắng:
- Đồng chí, Câm miệng
lại!
Nguyễn Lê nghe giọng nói
của một người thứ ba.
- Đề nghị các đồng chí
im lặng và tiếp tục nhiệm vụ.
Người lính thứ ba đổi
giọng thân mật hơn.
- Biết đâu nó cũng sẽ
chết giữa rừng như người con gái trước đây. Anh Hùng còn nhớ con Oanh, con nhà
sĩ quan ngụy ấy không?
Hùng Lé không trả lời.
Người lính thứ ba nói tiếp:
- Mất ba ngày đêm rồi, đói cực thấy mẹ. Nếu tóm
được tao sẽ cho nó vài ba chục cái báng súng. Thử xem nó cứng đầu đến đâu.
Lần này Hùng Lé đáp lại
tàn nhẫn hơn:
- Cho nó vài viên kẹo
đồng là xong. Đánh đấm làm gì cho mệt sức.
Tiếng nói, đối đáp trong
câu chuyện của họ mỗi lúc một xa dần rồi khuất hẳn. Nguyễn Lê nghe nhẹ hẳn nơi
vòm ngực, tỉnh táo trở lại. Anh trở người, tìm thế nằm thoải mái hơn.
Mấy tiếng đồng hồ sau,
Nguyễn Lê nghe tiếng một người con gái:
- Anh Lê, thế là anh đã
qua được một lần hoạn nạn. Em đã dõi theo từng bước anh trong suốt ba ngày qua.
Trước đây tù trốn trại, công an chỉ đi truy nã nhiều lắm là ba ngày. Lần này
họ sẽ đi lâu hơn. Đã có người áo vàng giả dạng đón anh ở nhà và các gia đình bà
con, hàng xóm của anh. Ngày mai anh đi về hướng Đông Nam , đi khoảng ba cây số sẽ gặp một
con suối cạn. Nhìn sang phía bên kia có một lối mòn trên sườn múi. Anh băng qua
con suối, men theo lối mòn đó, đi mãi sẽ gặp một căn nhà tranh. Anh vào gặp một
người đàn bà, xin họ một bộ quần áo, ăn uống xong ra đường đón xe về Sài Gòn,
nhưng không được về nhà. Sau đó anh nên đi xa như đã quyết định.
Nguyễn Lê tiến lại gần
cô gái. Nàng là một thiếu nữ nhan sắc tuyệt đẹp, đang ngồi trên một khúc cây,
tóc xõa che nghiêng một phần khuôn mặt. Nguyễn Lê nói trong ấp úng:
- Xin cho biết cô là ai
mà có mặt ở đây, giờ này? Sao cô lại tổn hao công sức với tôi như vậy. Nếu sau
này tôi được yên ổn, làm sao tôi có thể biết để đền tạ ơn cô.
Giọng người con gái vẫn
thều thào như tiếng gió:
- Anh đã từng gặp gỡ và
tâm sự với Trúc Vân. Em và Trúc Vân không phải là người xa lạ.
- Thế ra cô là Oanh, bạn
của Trúc Vân? Oanh ngẩng mặt nhìn Nguyễn Lê. Cặp mắt to tròn và sáng rỡ. Giọng
như thều thào, hối thúc:
- Anh đi đi. Đi mau lên.
Đã hết giờ hạnh ngộ. Đi mau lên!
Nguyễn Lê giật mình như
vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ. Anh không biết là mình vừa trải qua một giấc
chiêm bao, hay vừa qua một cuộc tiếp xúc thật sự với người thiếu nữ. Anh ngồi
lên. Hai tay ôm lấy đầu gối. Cả chân mình lạnh buốt, run rẩy. Tiếng gió hòa lẫn
âm thanh hỗn độn của côn trùng, giữa rừng khuya hoang vắng làm anh thêm rợn
người. Anh trấn tỉnh, ôn lại diễn biến những gì đã hiển hiện mà như một giấc
chiêm bao. Hình ảnh người thiếu nữ như mẩu người trong một truyện liêu trai mà
anh đã đọc hồi nào. Đúng nàng là hiện thân của Oanh, bạn của Trúc Vân. Phải,
Trúc Vân đã kể cho anh nghe về người bạn xấu số đó. Anh đã được quý nhân dẫn
đường, phù hộ. Nguyễn Lê lấy lại bình tĩnh và nghị lực. Ngồi im một lúc, nghe
ngóng, anh đứng lên quay về hướng Đông Nam , miệng lâm râm khấn nguyên. Rồi
anh bước đi. Phía sau lưng hai con bìm bịp kêu dồn, nhỏ dần rồi im tiếng. Khu
rừng chìm vào màn đêm tịch mịch, vắng lặng.
**
Hai mươi ba ngày sau, kể
từ hôm Nguyễn Lê trốn trại, bà Thanh Thảo nhận được một lá thư từ trại tỵ nạn
Paulo Bidong gửi về qua địa chỉ của người dì họ. Cầm bì thư, nhìn tên và địa
chỉ người gửi, bà Thanh Thảo sửng sốt như đang trong mơ. Bà cẩn thận lấy kéo
cắt vội phong bì. Mở trang thư, bà đọc theo từng nét chữ, hơi thở dồn dập.
Chị Thanh Thảo thân yêu,
Sau gần một tháng, kể từ hôm em quyết định trốn khỏi trại
tù Đồng Phú, hôm nay em đã đến đây, dưới bầu trời rộng mở. Chắc chắn là từ đây
em sẽ được thực sự làm người và được sống một cuộc sống ý nghĩa. Em đã lựa chọn
một lối thoát với đầy phiêu lưu, bất trắc, và sẵn sàng chấp nhận mọi rủi nay,
thành bại, kể cả mạng sống của mình, vì
sự đày đọa trong các trại tù cải tạo đã quá sức chịu đựng của con người. Em đã
giấu diếm ý định với mọi người là để giữ an toàn và không gây phiền lụy cho ai.
Xin chị chuyển lá thư kèm, cho em tạ lỗi và báo tin mừng đến ba má.
Em không biết nói gì, viết gì trong lúc này về chị và gia
đình. Cuộc đời của em đã có lại bình minh ở chân trời trước mặt. Còn chị? Còn
biết bao người khác... Chị vừa lập gia đình chưa được hai năm, anh chị đã phải
xa nhau. Em còn nhớ ngày anh xách gói ra đi, trong anh đầy ắp niềm tin thơ ngây
vào cái thông cáo “đi học tập một tháng.” Đã hơn ba năm rồi, anh vẫn biền biệt.
Mỗi năm một vài lá thư anh viết gượng gạo, e dè, có đủ làm niềm tin cho những
tháng năm đợi chờ của chị? Ba má ngày một già thêm trong nỗi buồn héo hắt. Em
rời bỏ cả thiên đường tuổi thơ ra đi, rời bỏ tổ ấm gia đình để đầu thai vào địa
ngục trần gian. Để thoát khỏi địa ngục đó, em lại phải rời bỏ xứ sở thân yêu,
rời bỏ tất cả mà bỗng chốc cơ hồ như bội bạc, như xua đuổi, như vong ân.
Trong lịch sử nhân loại chưa có một dân tộc nào mà người
dân phải bỏ xứ ra đi không kịp nói lời từ biệt, không kịp nhỏ giọt nước mắt khóc
cảnh chia lìa. Ra đi trong nỗi háo hức được ra đi. Ra đi không biết đi về đâu,
ra đi không hẹn ngày trởi lại. Ra đi như không còn nuối tiếc, như không còn bịn
rịn. Ra đi, bỏ lại đàng sau tất cả... gia tài, sản nghiệp, cha mẹ, anh em, quá
khứ, kỷ niệm, thành phố, xóm làng, đất nước, quê hương... bỏ tất cả để trốn
chạy chính những người anh em, đồng bào của mình.
Trong dòng nghịch lũ ấy, em đã phải ra đi, như ba mẹ
chúng ta đã phải ra đi từ năm 1954, như vạn vạn người ra đi năm 1975, như bao
người đã ra đi, đi dân công, đi sinh Bắc tử Nam, đi vào tù cải tạo, đi kinh tế
mới, đi xuống biển, đi lên rừng... Và cứ thế, em tin rằng trong dòng người bị
xua đuổi ra đi, như mãn nguyện ấy sẽ có anh chị, sẽ có những bà cụ già, sẽ có
những em bé, sẽ có những bác sĩ, những kỹ sư, sẽ có những chuyên gia, những trí
thức … những mảnh đời trôi giạt cùng cả một nước non đang trên đà trôi giạt
trong cơn lũ nghịch thường này ... còn lại trên đất nước một bãi hoang lịch sử
của một thời hoang dã cuối thế kỷ hai mươi.
Em cầu xin cho anh chị, cầu xin cho gia đình, cho dân tộc,
cho đất nước sớm qua cơn đại nạn này.
Song Nhị