NN Hùng dịch
Tôi không theo sát. Tôi bắt kịp ông ta tại phòng bán vé. Ở đó tôi ngạc nhiên thấy nhân viên phụ trách bán cho ông một tấm vé cứ y như bao khách viếng thăm bình thường khác. Người đàn ông mò mẫm tìm tấm vé, quét thành một khoảng nhỏ trên bàn với bàn tay của mình cho đến khi ông có được vé, nhưng viên phụ trách hình như chẳng thèm để ý. Rồi với tấm vé trong tay và dùng những ngón tay của bàn tay kia để đụng vào tường, ông tới thang gác dẫn lên sân thượng.
Tôi đứng cạnh bàn, mắt dõi theo ông cho đến khi không còn nghe được gì. “Người đàn ông ấy mù,” tôi nói với viên phụ trách và mong ông ta biểu lộ chút quan tâm, nhưng ông chỉ nhìn tôi với đôi mắt ngái ngủ. Người ông nặng nề, dường như cùng một thứ với bàn ghế của ông. “Ông ấy mù,” tôi lập lại.
Ông ta nhìn tôi một cách vô hồn.
“Một người mù muốn leo lên tháp để làm gì?” tôi hỏi.
Ông ta không trả lời.
“Chắc là không phải ngắm cảnh rồi,” tôi nói. “Có lẽ là ông ấy muốn nhảy.”
Miệng ông ta há ra một chút. Ông ta định làm gì chăng? Sức nặng của mọi thứ đè lên ông. Ông ta không nhúc nhích. “Ờ, cứ hi vọng là không phải vậy.” Ông ta nói và nhìn xuống trò chơi ô chữ mà ông đã bắt đầu.
Người đàn ông mù bây giờ đã khuất dạng. Tôi quay nhìn về phía cầu thang.
“Vé,” viên phụ trách nói, bật dậy từ chiếc ghế của mình. Hình như đây là điều duy nhất có thể làm ông ta chuyển động.
Tôi đưa cho ông đồng năm mươi lira, và ông xé cho tôi tấm vé từ cuốn sổ. Rồi tôi vội vã lên thang gác.
Người đàn ông mù chưa đi xa như tôi tưởng. Thời gian trôi qua không nhiều như tôi nghĩ. Được một phần ba tháp, tôi nghe bước chân ông. Tôi đi chậm lại và giữ một khoảng cách nhỏ theo ông. Ông đi lên thang gác một cách chậm chạp và đôi khi phải dừng lại. Khi ông lên đến sân thượng, tôi đã ở đằng sau ông độ mươi bước. Nhưng lúc tôi đến nơi thì không thấy ông. Tôi chạy lại góc đầu tiên của tháp chuông, chạy vòng góc tiếp theo và thấy ông ở đó.
Cuối cùng, sau mười phút, tôi tiến lại gần ông. “Xin ông tha lỗi cho,” tôi cố nói với dáng điệu lịch sự nhất. “Tôi lấy làm tò mò muốn biết là tại sao ông lên đây.”
“Anh không bao giờ đoán ra được đâu,” ông ta nói.
“Tôi chắc chẳn là không phải để ngắm cảnh hoặc thở hít không khí trong lành vào một ngày mùa đông như thế này.”
“Không phải vậy đâu mà.” Ông nói và cho là mình đã tạo được dáng vẻ tinh nghịch để đưa ra một câu đố.
“Nói cho tôi biết đi,” tôi nói.
Ông mỉm cười. “Có lẽ khi lên thang gác, anh đã nhận ra -- nhưng mà vì anh đâu có mù cho nên có lẽ anh không chú ý -- cách thức như thế nào mà không phải chỉ ánh sáng mà cả mặt trời cũng ùa vào tháp qua các cửa sổ hẹp giống như cắt thành từng miếng nhỏ nằm chỗ này chỗ kia để không ai có thể cảm thấy được có sự thay đổi – thang gác mát lạnh bỗng chốc trở nên hoàn toàn ấm áp, ngay cả trong mùa đông – và bằng cách nào mà ở đây đằng sau phần đặc giữa các bức tường lại có bóng râm, nhưng ngay khi người ta đi ngược lại phía phần trống giữa bức tường thì sẽ tìm thấy mặt trời. Ở tất cả các nơi tại Siena, không có chỗ nào hơn chỗ này người ta cảm nhận được sự tương phản giữa ánh sáng và bóng râm. Đây không phải là lần đầu tiên tôi lên đây.”
Ông ta bước vào chỗ có bóng râm. “Tôi đang ở trong tối,” ông nói. “Ở đó có một phần đặc giữa bức tường.” Ông di chuyển vào chỗ có nắng. “Bây giờ tôi đang đối diện với chỗ trống giữa bức tường,” ông nói. Chúng tôi đi xuống tháp chuông. “Có một vòng cung ở đó,” ông ta nói.
“Ông chưa bao giờ sai cả. Và mặt trời cũng không quá nóng,” tôi nói.
“Nóng vừa đủ,” ông ta nói thêm vào. “Bây giờ tôi đang ở đằng sau chuông.”
Khi quay trở lại sân thượng, ông đi quanh một vòng. “Sáng, tối, sáng, tối,” ông nói, ra vẻ hài lòng y như một đứa trẻ chơi trò nhảy lò cò, nhảy từ ô vuông này sang ô vuông khác.
Chúng tôi cùng nhau xuống tháp. “Một cửa sổ ở đó,” ông nói khi đến gần phần trên của tháp. “Một cửa sổ khác,” ông nói khi chúng tôi ở nửa đường đi xuống.
Tôi từ giã ông, cảm thấy hân hoan khi người ta chỉ hân hoan được bên ánh nắng mặt trời.
NN Hùng dịch chơi