Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng - thơ Phạm Ngọc Thái
Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống.
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
lọc
sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều
Cứ để cho tất cả lãng quên!
Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ…
Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ.
Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua
Những năm tháng không bẩn đấy,
cũng rộm
vàng khói cột
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu
Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu
Dù cho tất cả đã quên tôi !?
Phạm Ngọc
Thái
Nước Đức- Đêm
11/9/1989
(1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: "
Còn chút vàng mười mang ra bán nốt"
(2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà
văn Nga Pau-Tốp-xki.
Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX,
các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn
độn. Nền kinh tế xã hội sa sút. Đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi
vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90 Xô
Viết Nga tan vỡ, rồi hàng loạt các nước trong phe XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương
mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời. Như ở trong bài "Trở Về" của tập thơ
Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết:
Đông Âu bão giật xiêu
Thành Mác
Bốn bể chân trời lạc
khói sương...
Bấy
giờ nhà thơ còn là một cán bộ ngành ngoại thương quốc tế. Anh được điều động từ trong nước ra
nước ngoài tham gia công tác quản lý một đơn vị xuất khẩu lao động. Đó chỉ là
thực cảnh của các đám dân dã đi tha phương kiếm sống. Những trăn trở riêng
chung của tác giả trước một thực tế đầy phức tạp, để vào một đêm Nỗi Trăn Trở
Người Đi Tìm Vàng đã ra đời:
Tôi sống âm thầm trong
một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển
sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh
nghèo đi
Bài
thơ phác lên một bức tranh được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu. Những lớp người
này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó
cũng rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách quê người thì thật
kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều
nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Nó
đã thuộc vào hàng là những lớp chúng sinh tận cùng đáy xã hội rồi:
Đạo lý có hoá thừa đành
giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi
dễ sống...
Lòng
anh luôn bị dày vò, xa xót:
Hạt muối xót tháng năm
và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những
lãng quên!
Sử dụng
những cụm từ như: giả dại, làm ngơ, mách qué, vân vi... mà vẫn giữ được phong
cách của dòng thơ trữ tình chính thống, bản sắc thêm đậm đà chất văn học dân
gian. Người đã phải hoá mình thành giả dại, ngây ngô, cười cợt... mà sống. Nén
mình nuốt cái "đạo lý có hoá thừa" kia đi, tự nhận chìm bản thân như
là không tồn tại để lãng quên.
Tiếng
thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Đó là sự mở đầu bi hài của cuộc sống trong Nỗi
Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng này. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ
đi xuất khẩu lao động đó như thế nào?
Ai mang bán vàng mười
giữa phiên chợ đông? (1)
Tôi tìm chắt những bụi
vàng như anh lính lê-dương
lọc sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm
vàng có khác
Nhưng giá vàng tính
cũng như nhau.
Câu
(1) - Sử dụng ý thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/- "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng
của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ!
Nền tảng xã hội quá thấp thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được?
Huống hồ quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ
kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong
mình ra phiên chợ người mà bán? thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người
lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều.
Còn
câu (2):
Tôi tìm chắt những bụi
vàng như anh lính lê-dương
lọc sàng từng đống rác...
Phỏng
theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính
lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường
Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận,
viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của
ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!
Trên đường
về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng
Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời
bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành
một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại
ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt
vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua
năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn
làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ
xinh đẹp ở Pa Ri!
Trớ
trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết
trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối
lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến
được tay cô gái.
Vậy
là - Thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán,
cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại
vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
Dầu kẻ bán - Người tìm
vàng có khác
Nhưng giá vàng tính
cũng như nhau.
Nó đã
phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc
bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Ý
thơ thật xót xa. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, nền đạo lý bị
tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Đây là những câu thơ
hay nhất bài, như lời một nhà bình thơ đã nhận xét: Nó có thể đạt đến những câu
thơ trở thành kinh điển!
Thông
qua sự trăn trở bản thân, tác giả đã khai thác vào nỗi lòng tâm linh của những
người lao động, đưa tính nhân bản thơ lên đến tột cùng:
Cây lý chiều xưa gió
còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ
Chút thơm thảo: đoá phù
du ngắn ngủi
Sự
khao khát những chiều hương lý trong kỉ niệm, nhớ đến những bông đại nơi quảng
trường quê hương - Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người
ấy, càng thấy sự phũ phàng thực tế mà những kẻ đi tìm vàng đã phải chịu đựng. Kịch
tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau như hài kịch:
Giả dại ở đời thường mà
khôn lại trong mơ...
Câu
thơ điệp trở lại hai lần để nhấn mạnh, thật là một màn bi hài của xã hội và cuộc
đời. Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân
sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời
trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
Nhưng tôi đã có một thỏi
vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng
tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt
đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè
thân hữu...
Vậy nếu
khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái có phải tự chất vấn về mình:
Những năm tháng không bẩn
đấy, cũng rộm vàng khói cột
Thì
cũng giống như cảnh mà Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/- Làm sao ta có thể lên án được, bởi những con
người đó đã phải đổi cả một phần nhân cách cần thiết chỉ vì lương tri. Những việc
làm của họ là xuất phát từ lương tri của lương tri.
Chỉ với
hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại không khác gì một
pho tiểu thuyết, một tấn đời! Bài thơ có ý nghĩa hiện thực sâu sắc, giá trị
nhân văn cũng như tính điển hình xã hội ở trong một giai đoạn nhiều biến động
thời đại phức tạp, xẩy ra cả trong nước và trên thế giới.