Nói Chuyện Với Thơ - Song Nh ị
THƠ TÌNH
Với đề tài này bạn nhìn thấy hai vế: Thơ và
Tình. Trước hết nói về Thơ: Thơ là sự thăng hoa tuyệt đỉnh của cảm xúc, tư
tưởng và ngôn ngữ. Thơ là là một nghệ thuật riêng biệt của văn chương. Ngôn ngữ
của thơ là ngôn ngữ đặc biệt và riêng
biệt đi kèm với cảm xúc của người làm thơ
mà người ta thường gọi là thiên phú. Cụ Bùi Kỷ cho rằng Thơ là phần kết tụ của
khí hạo nhiên, một thứ hạo khí thuộc về phần hình nhi thượng của tạo hóa, để
rồi từ đó đã tuôn trào ra đầu ngọn bút trước những cảnh vật thiên nhiên cũng
như trước những cảm xúc của con người như khóc, như cười, như say như tỉnh, như
bực dọc, như hả hê, như nhớ nhung, như khuây khỏa.
Người thời nay, như Mai Thảo thì lại nhận
định: “Chỉ thơ, thơ mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của
văn chương”.
Học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần sau một đời
người miệt mài với chữ nghĩa, đọc, viết và nghiên cứu văn học cuối đời đã đưa
ra kết luận: “Thi sĩ các anh là con cưng của thượng đế. Rút cục chỉ có Thơ.”
Còn nữa, còn nhiều lắm nhận định của những
danh nhân, học giả Đông Tây dành cho thơ. Xin dừng lại đây để nói về Tình. Tình
đây là Tình Yêu. Theo như định nghĩa có nhuốm mùi triết học: Tình Yêu là sự tra
vấn, kiếm tìm, săn đuổi để chụp bắt một cái gì như có như không; như có đó mà
không có đó, rất thật mà không có thật; không có bây giờ nhưng có thể có ở ngày
mai, hoặc có ở lúc này nhưng ngày mai không chắc sẽ có. Và vì vậy mà tình yêu
như một ngọn sóng cuốn hút con người hết thế hệ này đến thế hệ khác, cứ thế
tiếp tục một cuộc săn đuổi kiếm tìm bất tận.
Xuân Diệu khi viết bài thơ với câu mở đầu:
“Yêu là chết đi trong lòng một ít” tuyệt nhiên không phải là một định nghĩa về
tình yêu như nhiều người vẫn gán ghép, mà là do cảm xúc nội tại về sự xao xuyến
của cõi lòng về một mối tình, một đối tượng đang còn săn đuổi, khi chưa đạt
được cứu cánh, chưa qua thời kỳ quá độ.
Nguyễn Bính khi làm bài thơ Người Hàng Xóm
với bốn câu mở đầu:
Nhà
nàng ở cạnh nhà tôi
Cách
nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai
người sống giữa cô đơn
Nàng
như cũng có mối buồn giống tôi
là lúc thoát thần thú nhận một cảm xúc trào
dâng để bao nhiêu ý tưởng suy nghĩ trào ra thành một “bản tự thuật” của trái
tim thi sĩ.
Bỗng
dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi
buồn tự hỏi: “hay tôi yêu nàng?”
Chính cái hư hư thực thực của cảm giác có
không, không có của nhu cầu tâm lý ấy mà những khoảnh khắc bất chợt của cảm xúc
bùng vỡ bất ngờ làm cho Thơ vụt hiện. Cùng với cảm xúc bùng vỡ, ngôn ngữ cũng
bất thần xuất hiện, ăn khớp nhịp nhàng với rung cảm để ý tưởng tuôn trào thành
thơ. Những ngôn ngữ bộc phát lúc bấy giờ có khi vô nghĩa với người ngoại cuộc
nhưng lại rất tâm đắc với chủ thể của mối rung động phát ra thành Thơ. Tất cả
ngôn ngữ, cảm xúc đó chỉ thể hiện trong cái khoảnh khắc rung động ấy thôi, sau
đó là hết, là mất hẳn. Sau đó nếu có cố vận dụng cách nào đi nữa thì cũng không
bao giờ tái tạo được cái cảm giác kỳ ảo đi kèm với những ngôn ngữ tuyệt diệu
kia.
Người thơ khi đắm chìm trong trạng huống tâm
tư như thế, do những rung cảm của con tim; do những trầm tư về một cảnh vật,
một con người, về những đoạn đời từng trải, trong một khoảnh khắc cái âm-ỉ kia
cuồn cuộn như cơn gió xoáy để bật thành tiếng, và thơ hiện hữu như một hóa
giải, như một đáp ứng tiếng réo gọi thôi thúc của tâm tư.
Sau đây xin mời bạn thưởng thức một bài thơ
được viết ra trong một cung cách như thế.
Tác giả cũng xin “thú nhận” bài thơ được viết trong trạng thái con tim
ray rứt, khắc khoải về một đối tượng, như một cơn khát dữ dội, con tim đòi hỏi
phải đuợc nói ra. Thế là ngôn ngữ thơ tràn ra trang giấy. Bài thơ làm xong,
giây phút đó qua đi, từ đó không bao giờ có lại cái cảm xúc lần thứ hai như vậy
nữa. Đối tượng từ từ chìm khuất và con tim ngủ yên.
Loại thơ này khác với những bài thơ tìm ý,
tìm chữ, ghép vần.
Góc Phố Này Mỗi Đêm
Cảm ơn em cho tôi đề tài
để làm bài thơ dạt dào cảm xúc
bài thơ không cần người đọc
khi viết xong đem thả giữa trời
Cảm ơn em những buổi sớm mai
ra khỏi cửa để thấy mình ngớ ngẩn
như chiếc xe lạc đường luẩn quẩn
chạy lòng vòng không tới ngõ nhà em
Tôi trở về nghe nhịp đập con tim
nhìn thấu suốt con đường lên phố núi
Tôi hối hả chạy quanh dòng suối
kiếm tìm em ... gặp kẻ vô tình
Tôi trở về hỏi lại con tim
nghe thỏ thẻ toàn những lời mộng ảo!
Cảm ơn em đã làm nên dông bão
để tôi ngồi trần trụi ngó phong ba
cảm ơn em vườn cây trái phù sa
đã bỏ mặc kẻ cơ hàn đói khát
đã bỏ mặc - gã thâm tình - tệ bạc
tiếc tiếng xưng em tiếc tiếng gọi mình
Bên cánh rừng em hát với bình minh
mà quên mất góc phố này mỗi tối
Cảm ơn em - không có gì đáng nói
mà còn rất nhiều không thể bỏ quên
tôi trở về ngồi suốt sáng thâu đêm
tưởng như thể chuyện long trời lở đất
Cảm ơn em ...
đành một lần lỡ mất!
Song Nhị
HOÀNG CẦM
và kịch bản Kiều Loan
Trong suốt dọc dài lịch sử Việt Nam, từ một nghìn năm trở
lại đây có hai vụ án được ghi chép, truyền tụng và nhắc nhở với tất cả mối
thương cảm, bất bình đến phẫn hận.
Vào giữa thế kỉ thứ 15, Nguyễn Trãi, một nhà văn hóa và là
một chiến lược gia lỗi lạc, vị khai quốc công thần của dân tộc cùng với dòng họ
ba đời đã bị bức hại oan khiên trong vụ án Lệ Chi Viên mà lý cớ là cái chết của
nhà vua trẻ Lê Thái Tông, 20 tuổi, băng hà trong một đêm khuya khoắt nơi vườn
vải đất Kinh Bắc. Và Thị Lộ, 30 tuổi, phu nhân của vị khai quốc công thần, với
tước vị Lễ Nghi Học sĩ, có mặt trên đường phò giá nhà vua về cung đã bị khép
tội giêtÙ vua. Thời đại nào cũng vạây, cũng có bọn này, bọn gian thần trong
triều đình nhà Lê đã giàn dựng vụ án tru di tam tộc dòng họ Nguyễn Trãi và từ
đó, đến mấy nghìn năm sau nữa, hậu thế khó có thể khuây nguôi nỗi bất bình đối
với triều đại nhà Lê...
Sáu trăm năm sau, ở thời đại chúng ta, vụ án Nhân Văn Giai
Phẩm, môt vụ án văn học làm kinh thiên động địa. Vụ án Văn Học này khởi đi từ
tập Giai Phẩm Mùa Xuân do nhà xuất bản Minh Đức ấn hành tháng 1 năm 1956 tại Hà
Nội. Tháng 8 năm 1956, trong một khóa học kéo dài 18 ngày do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức,
các văn nghệ sĩ miền Bắc đã mạnh mẽ phê phán sự lãnh đạo khắc nghiệt của nhà
cầm quyền cộng sản và đòi hỏi được tự do sáng tác. Để đè bẹp đội ngũ những
người cầm bút, dập tắt tiếng nói bằng lương tri của giới văn nghệ sĩ, Trung
ương đảng và giới cầm quyền đã đóng cửa các tờ báo Nhân Văn, Trăm Hoa, và các
tạp chí Giai Phẩm Mùa Đông, Giai Phẩm Mùa Thu. Cuộc khủng bố trắng kéo dài
trong suốt hai năm, đến năm 1958 thì có 304 văn nghệ sĩ đươc tập trung lại tại
Thái Hà Ấp qua cái gọi là “khóa học tập nghiên cứu”mà mục đích là để tẩy não,
răn đe và khống chế tư tưởng người cầm bút. Sau đó một số nhà văn, nhà thơ,
nghệ sĩ, trí thức lần lượt bị bắt bớ, tù đày, lao động cải tạo.
Hơn 40 năm sau, giờ đây chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, một
thế kỉ mới mở đầu, những người từng sống qua thời kỳ đó ký ức còn in hằn những
rung động xót xa. Thời gian lùi xa đã nửa đời người, mỗi lần nhắc đến, thế hệ
chúng ta hôm nay vẫn còn nhớ rõ tên từng người, những Trần Dần, Phùng Quán,
Hoàng Cầm, Hữu Loan, Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Quang Dũng, Văn Cao, Lê Đạt,
Tạ Hữu Thiện, Nguyễn Sáng, Phùng Cung, Sĩ ngọc, Đặng Đình Hưng, Chu Ngọc... đó
là những tinh hoa đang mùa nở rộ của dân tộc đã bị thành kiến chính trị và
quyền uy độc tôn làm thui chột, héo tàn.
Trong số những tài năng thuộc phong trào Trăm Hoa Đua Nở
Trên Đất Bắc đã để lại cho người, cho đời, cho kho tàng văn học nước nhà những
thơ văn giá trị, chúng tôi xin giới thiệu thi sĩ Hoàng Cầm, một trong số người
hiếm hoi còn ở lại với chúng ta đến hôm nay, cùng chúng ta và cả nhân loại đón
chào thiên niên kỉ mới. Thi sĩ Hoàng Cầm là tác giả của những vở kịch thơ Hận
Nam Quan, Kiều Loan, Lên Đường, Cô Gái Nước Tần, Viễn Khách và những bài thơ đã
đưa tên tuổi ông đi vào bất tử như: Đêm Liên Hoan, Bên Kia Sông Đuống, Lá Diêu
Bông, và nhiều, rất nhiều bài thơ khác nữa. Ngoài những vở kịch thơ viết trong
khoảng thập niên 40, mãi đến 50 năm sau ông mới ấn hành được thêm bốn tập thơ
khác: Men Đá Vàng (1988), Mưa thuận thành (1990), Lá Diêu Bông (1991), 99 Tình
Khúc (1995).
Kiều Loan là vở kịch thơ có nội dung ca ngợi những lý tưởng
xã hội cao đẹp của Tây Sơn, thông qua một bi kịch gia đình. Vở kịch được khởi
viết từ năm 1942 khi tác giả vừa tròn 20 tuổi và viết xong trước năm 1945. Vở
kịch được trình diễn lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1946 tại Nhà Hát
lớn, Hà Nội. Kiều Loan là đứa con tinh thần và cũng là đứa con máu thịt của nhà
thơ. Nữ sĩ Tuyết khanh, người thủ vai Kiều Loan của vở kịch, những năm sau là phu
nhân của nhà thơ và ông bà đã đặt tên cho ái nữ, đứa con đầu lòng là Kiều Loan.
Năm 1946, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cùng với lớp thanh niên nhiệt
tình yêu nước, Hoàng Cầm đi theo kháng chiến, năm 1954 thi sĩ trở về Hà Nội thì
vợ con đã theo dòng người tìm tự do, di cư vào Nam. Năm 1975, thêm một khúc
quanh nghiệt ngã của lịch sử đất nước, cơn lốc chính trị cuốn theo định mệnh
của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi nước nhà thống nhất thì cũng là lúc sự
tan hợp bẽ bàng đến với biết bao gia đình. Sau hơn 20 năm chờ đợi một ngày, thì
ngày đó nữ sĩ Tuyết Khanh đã theo dòng người di tản ra nước ngoài. Kiều Loan
kẹt lại sống lao đao giữa một xã hội nhập nhòe tranh tối tranh sáng, mãi tới 6
năm sau cô mới vượt biên đến được bến bờ tự do. Kiều Loan đến Mỹ, như một cơ
duyên, vở Kiều Loan cũng đã “nhập cảnh” Hoa Kỳ và đã xuất hiện trên sân khấu
hải ngoại, với sự khuyến khích, nâng đỡ của nữ sĩ Tuyết Khanh và nhạc sĩ Phạm
Duy, cùng sự đóng góp nhiệt tình của đạo diễn Nguyễn Công và các văn nghệ sĩ
khác. Kiều Loan đã thành công. Vở diễn được sự đón nhận nồng nhiệt của mọi tầng
lớp khán giả. Từ đó vở kịch thơ Kiều Loan của tác giả Hoàng Cầm được hâm mộ
nhắc nhở; và ái nữ Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm cũng bước vào diễn đàn nghệ
thuật, đảm nhận vai trò của một nữ nghệ sĩ diễn xuất, nổi bật nhất là giọng
ngâm thơ truyền cảm thu hút tâm hồn người nghe.
Khi được hỏi về vở kịch Kiều Loan, Hoàng Cầm đưa hai tay lên
trời mà than: “Định mệnh! Vở kịch đã vận vào cả cuộc đời, kinh quá!” Có một
quan điểm xưa nay vẫn cho rằng thơ vận vào người. Thực ra đó chỉ là hệ luận của
tính thần giao cách cảm với thời gian và sự kiện mà chỉ ở một số người nào đó
bắt đươc “làn sóng” này. Chúng tôi gọi đó là khả năng tiên tri của một nhà thơ,
của một thi sĩ. Thi sĩ Hoàng Cầm đã “thấy” trước, thấy rất rõ, hay đúng hơn ông
đã tiên tri được cuộc đời của ông và của cả đất nước hôm nay, cách đây gần 60
năm khi ông viết vở kịch Kiều Loan:
Kiều Loan ơi khi mưa rụng đầu non
Quê hương ấy mịt mù bao tâm sự
(trích màn I vở Kiều Loan)
Hoặc lớn lao hơn, phổ quát hơn về đất nước và con người hôm
nay:
Hỡi ai múa kiếm trên lưng ngựa
Giờ đã nằm yên dưới suối vàng
Chí lớn từ xưa chôn chặt đất
Riêng đàn đom đóm lại thênh thang
(trích màn
II vở Kiều Loan)
Chúng ta đón xuân năm mới Canh Thìn ở thời điểm mở đầu một
kỉ nguyên mới của nhân loại, từ chặng đường này nhìn về, giữa thế kỉ thứ 19 Cao
Bá Quát đã cất tiếng than bi ai nhưng ngạo nghễ, như nhổ vào mặt bạo quyền,
trước khi lên đoạn đầu đài cùng với dòng họ ba đời bị tru di tam tộc:
Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời
Và Nguyễn Công Trứ, một thi sĩ với chí nam nhi hào hùng, một
công thần của chế độ cũng đã cất tiếng than mỉa mai chua chát:
Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch
Người quân tử ăn chẳng cầu no
Rồi đến Tú Xương từ cuối thế kỉ thứ 19 sang đầu thế kỉ 20 đã
vẽ lên bức chân dung của chính mình:
Một phường rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Cùng thời với Tú Xương là Nguyễn Khuyến, vị Tam nguyên Yên
Đổ của thời đại lúc bấy giờ cũng không thoát ra ngoài cái thân phận chung của
giới sĩ phu nghèo túng:
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
Lịch sử là một cuộc
tái diễn không ngừng, đến giữa thế kỉ 20 cho tới khi thế kỉ này đếm bước cuối
cùng với sự tiến bộ vượt bậc về mọi mặt của nhân loại thì thân phận của những
kẻ sĩ thời đại vẫn không có một chút mảy may thay đổi nào. Hình ảnh của những
thi sĩ, của những sĩ phu thế kỉ 19 cũng là hình ảnh của giới kẻ sĩ Bắc Hà vào
giữa thế kỉ 20 mà tiêu biểu là những nhà văn, nhà thơ trong vụ án Nhân Văn Giai
Phẩm.
Hoàng Cầm, một nạn nhân trong phong trào Trăm Hoa Đua Nở
Trên Đất Bắc (*) từ khí phách và hào khí ngất trời của một chàng thanh niên yêu
nước, đi theo kháng chiến, rồi đã trở về với hình ảnh tiều tụy xác xơ sau những
khống chế, cách ly, tẩy não, treo bút, tù đày. Sau lần ra tù mới nhất vào năm
1982, người thĩ sĩ tài hoa này chỉ còn là một thân xác già nua bệnh hoạn, với
một tâm hồn chán chường đến điên loạn. Nhờ vào sự xoa dịu của thời gian và sự
an ủi của người thân, bạn hữu, Hoàng Cầm đã đứng dậy được và ông đã tiếp tục
vịn thơ mà đi, mà tồn tại với năm tác phẩm xuất bản vào đầu thập niên 90.
Vở kịch thơ Kiều Loan mở đầu cho sự nghiệp lẫy lừng của thi
sĩ Hoàng Cầm, tiếp sau đó là những bài thơ yêu nước. Bên Kia Sông Đuống, viết
năm 1948. Đây là một bài thơ chính khí nói lên cái khí phách của những chàng
trai thời loạn, đem chí tang bồng và lòng nhiệt thành hiến dâng cho quê hương,
dận tộc. Bên Kia Sông Đuống nổi tiếng vì nó làm nôn nao lòng người không phải
chỉ một thế hệ những năm 1950 mà hàng hàng thế hệ nối tiếp mãi mãi theo dòng
lịch sử dân tộc và lịch sử văn học nước nhà bên cạnh Màu Tím Hoa Sim của Hữu
Loan, Lời Mẹ Dặn của Phùng Quán, Đôi Mắt người Sơn Tây của Quang Dũng, Ông Bình
Vôi của Phan Khôi... Bên Kia Sông Đuống, như nhận định của nhà phê bình văn học
Hoàng Tiến ở trong nước, đã làm Hoàng Cầm vinh quang, và cũng đã làm Hoàng Cầm
tai vạ.
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm thẻ đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về Đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về Đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quay tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai? – Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao lóe giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu...”
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đa tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
(Việt Bắc tháng 4-1948)
**
Nhuận sắc 7. 2010