Thursday, July 31, 2014

Vài Nét về Văn Hào Nguyễn Du - Giáng Ngọc      


                  Nói đến văn hào Nguyễn Du thì không ai lạ gì. Hầu hết người dân Việt, xuyên qua truyện Kiều đều hiểu rõ tâm trạng cũng như tài hoa và nghệ thuật viết văn vần của cụ Nguyển Du.
    Từ trước đến nay, các nhà biên khảo văn học thường bàn luận rất nhiều về Nguyển Du với truyện Kiều.  Ít ai nói tới những lãnh vực khác của cụ.
     Nguyên gia đình cụ có ông anh của cụ là Nguyễn Nễ, lớn hơn cụ chừng 4 tuổi. Năm 1783 ông đã đỗ tứ trường ở trường Phụng Thiên (cử nhân), Hà Nội lúc mới 22 tuổi. Còn cụ Nguyễn Du đổ tam trường (tú tài) ở trường Sơn Nam, Nam Định lúc 18 tuổi.
  Năm 1786 Nguyễn Nễ vào làm quan trong phủ chúa, cai quản đội quân Phấn Nhất . Còn Nguyễn Du giữ chức Chánh Thủ Hiệu  đội quân Hùng Hậu Hiệu , tỉnh Thái Nguyên .
     Thời gian thay vua đổi tước, đất nước lắm nhiêu khê. Năm 1789, Vua Quang Trung đại thắng quân Thanh. Quan lại Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Tàu.  Cụ Nguyễn Nễ và Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan với Tây Sơn. Năm 1790, Cụ Nguyễn Nễ được bổ chức Hàn Lâm Viện thị Thư sung chức phó sứ tuế công.
   Sau này cụ Nguyện Nễ được thăng chức Đông các Đại học sĩ và đuợc cử đi sứ qua Trung Hoa nhiều lần nữa .
     Nguyễn Du: Sau nhiều biến cố chính trị với sự suy vong của vua Lê, chúa Trịnh  sự thất bại của Tây Sơn và sự phục hưng của nhà Nguyễn . Đến năm 1809 , dưới thời vua Gia Long . Năm đó Nguyễn Du đã 44 tuổi, được bổ làm Cai Bạ dinh Quảng Bình (ngang hàng với Bố Chánh) . Đến đầu năm 1813, (48 tuổi) ông lại đuợc thăng chức Cần Chánh Điện học Sĩ , sau đó lại được cử đi sứ Trung Hoa .
    Sau khi trở về Phú Xuân , Nguyễn Du cảm thấy mệt nhọc , sức yếu . Ông xin vua cho nghỉ ở nhà từ tháng 6 cho đến cuối năm 1814.. Một năm sau đúng 50 tuổi ( Ngũ thập tri thiên mệnh) , ông trở lại kinh đô , được nhà vua thăng chức Hữu Tham Tri Bộ Lễ
   Đến năm 1816-1817: Xẩy ra vụ tranh chấp giữa Nguyễn văn Thành và Lê văn Duyệt đưa đến nhiều cái chết oan ức của Nguyễn văn Thành và con trai là Nguyễn văn Thuyên , kèm thêm tội xử trảm giam hậu Võ Trinh , anh rể Nguyễn Du và thầy dạy học của Nguyễn văn Thuyên .Lúc này Nguyễn Du mang nổi buồn thầm kín . Mỗi lần ra chốn triều đình, ông cứ ngồi lặng thinh , khiến cho vua Gia Long phải phiền trách nhẹ nhàng rằng :" Nhà nước dùng người , ai giỏi thì
cất lên , không hề phân biệt người xứ Bắc,Nam . ... Khanh với ngôi vị đã được vua biết tài mà bổ dụng , làm quan đến chức  á khanh (thamtri) . Biết điều gì cứ nói ... sao lại cứ rụt rè , chỉ biết dạ .. dạ..vâng.. vâng  thế thôi sao ! "
     Năm 1819 . Nguyễn Du được 54 tuổi , ông được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam , ông bèn dâng biểu
cố từ ; được vua chuẩn y.
   Đến năm 1820 Vua Gia Long mất , Minh Mạng lên thay . Ông lại được chọn làm Chánh Sứ cầu phong . Lúc đó bệnh dịch tả hoàn hành khắp nơi . Ngày 10 tháng 8. Nguyễn Du bị cảm bệnh . Ông mất năm 55 tuổi .Ông được mai táng ở cánh đồng Bầu Đá,Xã An Ninh (An Hòa) Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên .
   Căn cứ theo " Bắc hành Tạp lục" thì khi Nguyễn Du đi qua Thăng Long ông cảm tác bài đầu tiên là :"Long Thành Cầm Giả ca" và bài cuối tập là bài "Chu Phát" Ông làm khi trở về Võ Xương .
   Bài ca " Người gảy đàn đất Long Thành " do Nguyễn Du cảm tác lúc khởi hành đi sứ trở lại Thăng Long sau 20 năm (Kể từ năm 1787  là năm Tây Sơn ra Bắc Hà lần thứ 2).
   " Người gảy đàn đất Long Thành ấy không rỏ là tên gì ? Nghe đâu lúc còn tuổi trẻ nàng học đàn trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê . Lúc quân Tây Sơn ra , đội nhạc nữ kẻ chết, người chạy tán loạn thất lạc không còn gặp nhau .Riêng nàng ? ôm đàn hát rong ở chợ . Những bài nàng gảy là những khúc Công, Phụng hòa hiệp thường gảy cho vua nghe (nhạc cung đình) người ngoài ít ai được nghe hay biết đến , cho nên tài nghệ của nàng được nổi tiếng là nhờ vậy .
   Hai mươi năm , môt thời gian dài .. Nguyễn Du gặp lại nàng ca nữ ... biết bao vật đổi , sao dời . Tinh người, tình đời cũng nhiều thay đổi . Nàng gảy đàn Nguyệt ( xưa gọi là đàn Nguyển) .
 Nguyễn Du bùi ngùi thương xót cho người ca nữ một thời sắc nết toàn vẹn :" Người ta trong cỏi trăn năm , những sự vinh nhục buồn vui khôn lường .Nguyễn Du đả cảm tác bài thơ khá dài:

                       Trích Đoạn (do Lãng nhân Phùng Tất Đắc dịch):
    -" Tuổi hai mốt nõn nà lộng lẫy
       Gió xuân êm hây hẩy bóng đào
       Men tô duyên não nùng sao,
       Nỉ non năm tiếng thấp cao tuyệt vời
       Theo tay ngọc lòng người ủ rũ
       Tiếng bổng trầm to nhỏ miên man
       Khoan như gió lướt thông ngàn
       Trong như tiếng hạt lạc đàn kêu sương
       Mạnh như sấm phủ phàng xé đá
       Tiến Phúc bia nổ  phá ầm ầm (1)
       Buồn như khúc Việt ai ngâm
       Nổi lòng Trang Tích âm thầm mà đau (2)"

  Trên đường đi xứ Lạng , Nguyễn Du ghé thăm đền Mã Viện và cảm tác bài thơ như sau :
                    " Sáu chục người ta sức mỏi mòn
                       Riêng ông yên giáp nhảy bon bon
                       Được lời vua chúa cười là thích
                       Quên nỗi anh em thấy đã buồn ...
                       Những tưởng tượng đồng lòe  gái Việt
                       Chẳng dè xe ngọc lụy đàn con
                       Đài mây tên họ sao không để
                       Tuẫn tiết phương Nam, chết vẫn bòn ."

      Bài thơ này chê trách Mã Viện mang cái thân già ra mà dọa nạt đàn bà con gái nước Việt, rồi để cho tùy tướng là Ý Dĩ chở hạt bo bo về nước , khiến cho tình báo tưởng lầm là châu ngọc báo cáo về triều đình , nên bị cách chức , làm liên lụy đến gia đình . Sau này hạt bo bo còn gọi là hạt Ý Dĩ .(Graines de coix) .(3)

   Nghi lể ngày xưa nước Việt đi sứ qua Trung Hoa để triều cống , hoặc bang giao .
     Ngay khi   Tướng Lý Thường Kiệt phá tan kho lương thực ở hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây . Hay vua Quang Trung đại phá quân Thanh , rồi cũng phải sai sứ qua
Trung Hoa xin giãng   hòa và phải triều cống . Tuy nhiên hai bên vẫn có những quốc lể và hành xử ngang hàng với thể diện quốc gia.
   Nghi lễ như sau :
                            Căn cứ trên sách " Thính Vũ hiên bút ký" thì việc đi sứ có hai lý do chính yếu :
                      - Tuế cống : Đến kỳ hạn thì nước ta phải cử người đi sứ cống hiến phẩm vật và để thắt chặt giao hảo giữa hai quốc gia . Thời hạn tùy theo từng lúc, từng triều đại .  hai năm, bốn năm hoặc lâu hơn là sáu năm .
                      - Sứ lể Nhân lể lớn của triều đình Trung Hoa . Nước ta cũng gởi sứ bộ đến chúc mừng hoặc điếu tang ( quốc tang) .
      Trước tiên triều dình Việt Nam gởi thông điệp cho Tổng Đốc Quảng Tây là tỉnh giáp giới với Việt Nam . Với ý định gởi sứ bộ và thông báo ,ngày giờ v.v... để "Thái Bình phủ " cho người đến cửa ải mang chìa khóa đến mở cửa .
 Vào thời Mã Viện có chôn một cái cột đồng vói lời nguyền "Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt " Nên mọi người dân Việt Nam đi ngang qua dùng sỏi đá chêm cho trụ khỏi ngã sợ rằng trụ  mất dân tộc sẻ bị tiêu diệt. Ai ngờ càng bỏ đá cây vào thì trụ đồng cỏ mọc lên che lấp dần và .. mất luôn . Nhưng Giao Chỉ không bị diệt mà còn phồn vinh hơn .
   Sứ bộ đến Aỉ Nam Quan , một lãnh binh Việt trình và xin cái chìa khóa để mở cửa Aỉ .Chìa khóa  này to bằng bắp vế và dài một thước tây . Lúc mở cửa bên phiá Trung Hoa cho nhạc trổi lên một cách long trọng .Phái bộ đi qua cửa và tiến vào giữa hai hàng quân gươm giáo sáng lòa . Đồng thời súng thần công Trung Hoa bắn nổ vang trời . Hai bên đều có thông ngôn để hướng dẩn phái bộ tới gặp các quan chức ha bên .Sau khi hai bên vào mộ dinh trạm an vị, Vị đại diện và Đề Đốc xem kỷ quốc thư
nhìn kỷ các sứ thần , xong chọn độ một trăm vị  và xem phẩm vật cống hiến . Phía Trung Hoa cũng cử một số quan chức đi theo hướng dẩn tới Bắc Kinh .
  Sau lể chầu vua  xong , phái bộ được an nghỉ và được tiếp xúc những nơi mang tính chất ngoại giao , sau đó cac quan chức hướng dẩn phái bộ trở lại cửa Ải và phái bộ sẻ qua cửa để trở về nước .
 Có những lúc phái bộ được đến các nơi để tham quan như đi trên sông Tây Giang xuống Nam Ninh và Vũ Châu , Giang Nam , rồi sau đó phái bộ lên thuyền đi bộ theo đường bộ đến Yên Kinh .v.v...
  Những cống phẩm Việt Nam thường gồm có : Trầm hương,Kỳ Nam,Tốc Hương,Ngà voi,Sừng Tê Giác, Lụa,vải, Sa Nhơn đậu khấu , cau khô . v.v...
    Cụ Nguyễn đi sứ có đặc điểm là nơi nào códi tích Bách Việt , thì nơi đó cụ dừng lại , ngậm ngùi và đề thơ cảm tác cho người xưa cảnh củ .
    Qua các bài " Quế Lâm cù các bộ (2 bài) Ninh minh giang chu hành -Thương Ngô tức cảnh (2 bài).
      Khi đi qua Hồ Bắc , trên sông Dương Tử .Nguyễn Du nhớ tới Thôi Hạo , ngẩng mặt nhìn Hoàng Hạc Lâu mà cảm tác như sau :
       " Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì
          Do lưu tiên tích thử giang mi ?
          Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng
          Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi
          Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu
          Nhãn trung thảo thụ thượng y y
          Trung tình vô hạn bằng thùy tố
          Minh nguyệt thanh phong dã bất tri .

          Bản dịch :
          Thần tiên đâu đó tự bao giờ ?
           Còn dấu ghi đây cạnh bến bờ
           Nay đến xưa qua Lư vẫn mộng
           Hạc bay lầu vắng hạo còn thơ
           Ngoài hiên khói sóng miên man thế
           Trước mặt hàng cây phảng phất như
           Bày tỏ với ai tình chất chứa
           Trăng trong gió mát cũng ơ  thờ.

 Trên đường chu du Trung Hoa . Nguyễn Du cũng đã từng ghé thăm miếu, điện, đền đài, lăng mộ v.v...Nơi nào cụ cũng để lại mộ it cảm tác thơ đề .

     Nguyên Truyện Kiều còn gọi là truyện Thúy Kiều do Dư Hoài kể lại trong "Ngu sơ tân chí" Sau đó Thanh Tâm tài Nhân viết thành tản văn truyện dài ,được Kim Thánh Thán chú giải cuối đời nhà Minh .
   Nguyển Du còn mang nhiều bộ đồ sứ do nhà vua sai đặt làm ở Giang Tây để dùng cho nội phủ trong đó có bộ chén trà Mai Hạc có thi bút tích chữ nôm của cụ Nguyễn Du trong hai câu thơ lục bát :
        "  Nghêu ngao vui thú yên hà
         " Mai là bạn cũ hạc là người quen .
 Cụ Nguyễn Du cũng đã hoàn thành sứ mệnh của một công dân nướv Việt . Cụ còn để lại cho đời sau con cháu một tuyệt tác mà ngàn năm sau "nó" vẫn mang mãi tính chất văn học ,  và phản ánh một sự nghiệp văn hóa tượng trưng cho một dân tộc tuyệt vời không bao giờ chịu khuất phục trưóc bạo quyền cho dù ở bất cứ nơi nào đến trên quê hương xứ Việt .Đó là  tập truyện  Kiều  theo thể văn vần  mà cụ đã lấy ý trong tập truyện  "Thúy Kiều " Do Thanh Tâm Tài Nhân viết thành truyện kể lại đời nàng Kiều....

                                                             Giáng Ngọc .
        
          (1) Bia Tiến Phúc : Là bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu Tỉnh Giang Tây .
          (2) Trang Tích : Đời Xuân Thu người nước Việt làm quan ở nước Sở . Khi Trang ốm , vua Sở muốn biết Trang còn nhớ nước củ không ? Có người  tâu với vua
 là người bệnh thường hay nhớ cố quốc . Thật vạy vua cho người rình và nghe Trang hát nhạc bằng tiếng Việt rất buồn và bi ai.
   (3)  Hạt bo bo không biết  thời  đó như thế nào ? Có giống hạt bo bo chúng ta ăn vào năm 1977-1980 hay không ?.
   Bài được  tham khảo trong :
Việt Nam sữ ký
Sách Hương Giang Thái Văn Kiểm
Báo  Làng Văn