Bướm Trắng - Phạm Hoàng Chương
Năm 75 Cộng sản vô, Vũ và tôi mới kết
thúc năm đầu đại học Huế. Băng bốn đứa chúng tôi, Nam, Quy,Vũ, Khoa ngồi chung
lớp từ 10 đến 12 Trung học Đà nẵng,
nhưng tôi và Vũ thân hơn cả, vì cùng là dân Quảng Nam. Vũ đẹp trai nhất bọn,
hai mắt to, sáng, mũi cao, môi mọng, ăn nói có duyên. Vũ và tôi học Sư phạm ban
Pháp văn, Quy Sư phạm Toán, còn Nam học lớp Lý hóa bên Khoa học. Ba Vũ là đại
úy nha sĩ, bị học cải tạo mấy năm. Ba tôi là thầu khoán, trước xây nhà cho Mỹ
mướn ở Đà nẵng, bị đánh tiểu tư sản, bị tịch thu cái nhà cho
thuê, chỉ được giữ
cái nhà nhỏ để ở. Mấy ông khu trưởng, cán bộ phường hay hăm he hù dọa 2 gia
đình tôi và Vũ bắt đi kinh tế mới. Vũ và
tôi bỏ học, lao động kiếm sống giúp đỡ gia đình. Năm 78, ba Vũ ở trại cải tạo về,
sốt rét vàng da, lấy cớ bệnh không đi họp phường khóm tổ chức, còn ba tôi lén lút đi xe đò thường xuyên vào Nam để tìm
cách di chuyển vào đó làm ăn.. Hai gia đình bị công an khu vực báo cáo, chính
quyền địa phương nghi ngờ, nên để kiềm chế hai ông cha, Phường nghĩ ra cách ép
Vũ và tôi đi nghĩa vụ “Thanh niên xung phong”, về làng quê trên núi huyện Phước
Sơn giúp đồng bào nghèo, cùng với một số thanh niên con nhà tư sản khác.,
Hồi còn ở trung học tôi đã giỏi âm
nhạc, nên về Phước Sơn, mang theo cây đàn violon nhỏ xíu để tiêu khiển, còn Vũ
đem theo cái đồng hồ reo của Pháp, có hình cặp gà trống mái màu vàng đỏ gắn ở 2
cây kim chỉ giờ phút, vì nghe nói ở nhà quê chỉ nhìn mặt trời mà đoán giờ giấc .. Phước Sơn nằm gíáp biên giới Lào, núi non
hiểm trở, phía trên là ba huyện Tam Giang, dưới là Trà My. Từ Phước Sơn về Hội
an, Tam Kỳ phải đi nương theo sông Thu bồn qua các huyện Quế sơn, Đại lộc, Điện
bàn. Chúng tôi lên Phước Sơn, phải đổi xe hai ba lần, đám sinh viên cùng đi như
chúng tôi được phân bổ tách riêng đi hai ba xã khác nhau, còn hai đứa theo một
người dẫn đường lên xã Thạch hãn, nằm trên núi cao tít, mất hết nửa ngày. Càng
lên cao, khí hậu càng mát mẻ, không khí trong trẻo, phong cảnh hữu tình như
trong các bức tranh Tàu. Đường đi quanh co, nhìn xuống thung lũng bên dưới lờ mờ
mây trắng khói sương, tưởng như lạc vào động Thiên thai. Ông bí thư xã THạch
hãn khoảng 40, tên Bổn, hai mắt đa nghi sắc sảo, răng hô mã tấu, ra nhận chúng
tôi, hai thằng nhóc con “tư bản” ở thành phố lên. Ông mở hành lý hai đứa ra
khám xét. Ông lôi ra cái đồng hồ reo, ngắm nghía, bỏ xuống, nhìn chòng chọc vào
mắt Vũ:
-Nghe nói cha
cậu là nha sĩ “phản động” ?
Vũ lúng túng
phân trần:
-Không, ông chỉ
thỉnh thoảng có nhổ răng cho mấy sĩ quan Mỹ ở Tam kỳ.
Ông lại lôi
ra một cuốn sách, cầm ngược chiều, mở ra coi:
-Sách gì đây?
-Đó là sách
day nấu ăn. Không, ông đọc ngược rồi. Quay sách lên.
Mấy người
nông dân đứng gần cười khúc khích. Ông Bổn trừng mắt quay lại:
-Cười gì? Mấy
ông có biết đọc chữ không mà cười?
Ông đưa sách
cho Vũ:
-Chú mày đọc
thử coi.
-Cháo gà, vật
liệu: 100 gram thịt heo, nửa con gà mái, 50 gram hạnh nhân, một nhúm hành
hương, vài củ tỏi, nấm mèo, một lon gạo….
Hai chị đàn
bà đứng nghe, gật gù cái đầu. Một bác hỏi:
-Không có hạnh
nhân, thay bằng đậu phọng được không cậu?
Ông Bổn giựt
phắt ngay cuốn sách, gằn giọng:
-Đây là sách
nuôi béo bọn tư bản đế quốc bóc lột, nghe để làm gì ? Tôi nói cho cậu hay: lên
đây là để học tập lao động, không phải để mở tiệc ăn uống cao sang phè phỡn, ở
đây chỉ có cơm độn khoai, ăn với cải luộc và dưa muối thôi.
Ông xe toạc
sách làm hai, bước tới rứt từng trang vứt vô đống lửa. Tôi và Vũ sửng sốt, đang
ngẩn ngơ tiếc thì ông lại mở valise tôi ra, thấy cái đờn violon là lạ, móc ra
coi, kê vào lỗ tai nghe ngóng. Bỗng ngón tay ông vô ý chạm phải một sợi dây, bật
lên một tiếng”đùng”, làm ông giựt mình hốt hoảng đẩy ra xa, nhưng vội giả vờ thản
nhiên, gật gù ra bộ hiểu biết:
-À, đây là đồ
chơi của trẻ con tư bản.
Ông đưa cho một
bác đứng gần, người này gõ cộp cộp vào gỗ, không thấy động tịnh gì, đưa cho một
chị khác, chị này kê miệng vô thổi, cũng
không thấy biến chuyển, bèn chuyền cho một cô gái, lấy tay sờ nắn khắp nơi.
Ông Bổn chậc
lưỡi:” –Đây là đồ để giải trí bọn tư sản.” rồi hất hàm ra lệnh,“ Ném vô lửa !”
Vũ lật đật giằng
lại cây đờn:
-Không được,
đây là dụng cụ âm nhạc đắt tiền, tên là vỹ cầm, tiếng nhạc rất hay. Khoa chơi
đàn này hay lắm.
Ông Bổn nhìn
tôi hất hàm,”Chú mày là Khoa hả? Đờn thử coi !”
Tôi cầm đàn,
đặt đàn dựa vào cổ, tay mặt đưa cần lên, đang ngẫm nghĩ không biết đàn bài gì
thì Khoa gợi ý :
-Đàn một
sonata nào đó của Schubert..
Ông Bổn hỏi:
-Sonata là
gì? Schubert là ai?
-Sonata là …một
bản nhạc… nói về miền sơn cước..Schubert là tên nhạc sĩ.
Ông nổi giận
đứng dậy toan giật lấy cây đàn:
-Tôi chỉ cần
biêt tên bản nhạc là gì thôi.
Vũ nhanh trí
đỡ lời:
-Tên là
“Schubert nhớ về bác Hồ.”
Ông dịu lại,
ngồi xuống,” À, nhớ về bác Hồ à ? Được ! Đàn đi !”
Tôi đẩy cây cần,
nhẹ nhàng di chuyển thân mình, dạo bài Serenata. Tiếng nhạc du dương cất lên,
réo rắt kêu gọi, hờn oán, thê lương... Mọi người trong nhà ngồi chăm chú nghe như bị thôi miên. Bên ngoài, mấy
người đi ngang qua cũng xúm lại, chúi mũi
áp vào cửa sổ mê mẩn nghe.
Chúng tôi được
bố trí cho ở một căn nhà sàn, nhìn xuống dòng sông Thu bồn giữa các rặng núi
cao. Đường trong làng quanh co, ven triền núi đôi lúc phải chống gậy bước lên
những bậc thang cấp bằng các phiến đá. Có khoảng hơn trăm nóc nhà rải rác trên
các sườn đồi, nhìn xuống thung lũng quanh hồ. Ông Bổn trưng dụng cái đồng hồ
reo của Vũ làm mốc ấn định giờ giấc làm việc. Đúng 7 giờ là ông đứng trên đồi
cao, đánh kẻng keng keng kêu gọi mọi người ra đồng. Bổn phận chúng tôi có khi
múc phân người ở cầu tiêu lộ thiên, hay phân heo, trâu bò, vào các thùng gỗ, bỏ
lên xe tay chế biến, đẩy ra đồng, múc tưới bón phân cho lúa, bắp, rau muống, đậu,cà.
Chỗ nào khó đi, phải xúm lại khiêng bổng chiếc xe lên cho qua đoạn lồi lõm, mùi
thối xông lên nồng nặc, nhiều lúc nước dơ nhầy nhụa, sóng sánh văng ướt mình mẩy
làm tôi thất kinh khiếp đảm. Có khi phải xuống hầm mỏ khai thác quặng đồng ….,cuốc
quặng, lom khom đẩy xe đầy quặng nặng chĩu cả ngày muốn gãy lưng. Vũ than thở:
-Tao nghĩ phải
chôn vùi tuổi xuân ở cái xó này mà lạnh ớn xương sống.Thằng Nam hên, vô được Saigon
ở. Trong đó thành phố lớn, đâu có như ở miền Trung núi non khô cằn hắc ám này.
Một hôm, trên
đường đi lao động, chúng tôi nghe bác đồng hành nói đến một hồ tắm thiên nhiên
có nước từ trên thác đồ xuống ở mạn Tây bắc Phước Sơn, có các cô gái trẻ làng
bên thường ra đó tắm. Bác nói chỗ đó như chốn Bồng lai, tiên nữ chiều chiều ra
tắm đùa giỡn ríu rít, cây cối xanh tươi, suối chảy róc rách, chim hót du dương,
khiến Vũ và tôi trai tơ mới lớn, động lòng hiếu kỳ, tìm lối vạch lá, rẽ cây ra
đó kiếm. Quả nhiên, hai đứa nấp sau mấy tảng đá rong rêu, cách chỗ ấy cách mười
thước, thấy một cái ao thiên nhiên hơi nước bay lên trắng xóa mờ mờ ảo ảo. Bảy
tám cô gái chưa tới 20, gần như trần truồng, bơi lội vùng vẫy, té nước vào nhau
cười khanh khách. Vũ trố mắt nhìn đăm đăm, nhưng muốn coi cho rõ hơn, anh chàng
mon men vịn cây leo qua bên kia tảng đá. Bỗng tôi nghe “huỵch “, Vũ vô ý trượt
chân té ùm xuống một cái giếng khô, khiến các cô gái giựt mình quay lại, hét
lên ầm ỹ, bỏ chạy tán loạn. Tôi lật đật quay lưng chạy, kiếm chỗ núp, thấy ba
cô gái dạn dĩ đứng trên mặt giếng thò đầu xuống khúc khích cười trêu chọc Vũ:
-Ê, liu liu, dòm
trộm con gái tắm không biêt mắc cở...
-Không có đường
lên đâu nghe anh...Chịu khó ngủ dưới đó,
mai có người cứu …
-Anh hên gặp
tụi tôi hiền, gặp người khác là lên đồn công an ngồi rồi, biết hông? Ha ha ha….
Tôi nấp sau bụi
cây, thấy cô vừa nói sau cùng rất đẹp, nổi bật hẳn lên trong ánh nắng chiều
thoi thóp. Da cô trắng như trứng gà bóc, mắt cô đen láy, mũi cô dọc dừa, mặt
tươi như hoa, hàm răng trắng như ngọc. Nghe mấy cô bạn gọi cô là Trà Mi.
Khi các cô
gái bỏ đi, tôi mới dám xuất hiện trên miệng giếng tìm cách cứu Vũ leo lên. Ai
dè qua hôm sau, đang lúc ngồi đàn cho vợ chồng ông Bổn nghe ở trụ sở Ủy ban
nhân dân thì chính cô ấy cùng một ông già thợ may ( sau này mới biết là ông nội
cô ) và hai thiếu nữ sang chơi, mang
theo nhiều vải vóc đủ màu. Các cô gái mừng rỡ chạy ra ríu rit chào đón đoàn thợ
may. Ở chốn làng mạc xa xôi, không ai biết may, nên hai ông cháu thợ may được quí
trọng đặc biệt. Vũ thấy Trà Mi thì tái mặt, chui vào chỗ khuất ngồi, nháy mắt
nhìn tôi, nhưng cô bé lại nhanh nhẩu cất giọng trong trẻo tươi cười nói oang
oang:
-Nghe nói bên
này có người chơi nhạc hay lắm, nên tụi con mò qua xem.
Ông nội cô cầm
lấy chiếc đàn violon, mân mê, nói với mọi người:
-Tôi có nghe
nói về đàn này, tên nó là “violon”, nhưng chưa từng nghe qua.
Trà My liếc
thấy Vũ, nhoẻn cười, chen tới ngồi bên cạnh làm quen, hai mắt long lanh, thỏ thẻ
hỏi:
-Nghe nói ba
anh biết “giết con sâu trong cái răng” hả?
-“Giết gì?” ,Vũ
trố mắt cười , hỏi lại.
-“Sao anh cười?”.
My nũng nịu.”Tụi em quê mùa, đâu biết dùng chữ “khoa học” như mấy anh…”
-Không phải vậy,
Tại cô nói cái câu gì mà nghe tức cười quá…Phải, ba tôi là nha sỹ, trị bệnh sâu
răng cho bệnh nhân.
Tôi liếc nhìn
trộm Trà My, em liếc nhìn lại, miệng cười duyên dáng:
-Nhà em ở bên
làng Thiên Sơn, bên này là nhà dì em. Em tên Trà My. Thiên hạ gọi em là “Con nhỏ
thợ may ”. Còn hai anh tên gì?
-Tôi tên Vũ.
Bạn tôi là Khoa. Thiên Sơn có xa đây không?
-Chừng 2 cây
số. Lâu lâu ông em mang đầu máy may sang đây, ở lại nửa tháng để may đồ cho
khách bên này.
Tôi cười, đăm
đăm nhìn Trà My. Em giương đôi mắt trong xanh nhìn lại, khiến tôi bối rối ngó
đi chỗ khác. Chợt em thấy cái đồng hồ reo ông bí thư xã treo trên vách, bước lại
tò mò nhìn. Tôi tiến lại gần, em hỏi cái này của ai .Tôi nói của Vũ. Em hỏi:
-Sao con gà
trống trong này biết cử động hay vậy anh?
--Vì nó là gà
trống thật ”, tôi đùa.”Nó gáy đúng giờ mỗi sáng.”
Em tưởng thật,
lấy ngón tay dí vào kiếng, ngay đầu con gà, say mê ngắm nghía hai cây kim, mấy
con số. Gần sáng hôm sau, trời còn tối, Vũ ngồi dậy, gọi tôi.”’Ê Khoa,tao thấy
con nhỏ thợ may có hàm răng trắng dễ thương chi lạ. Chỉ tiếc em còn quê mùa quá.
Nói rặt “accent” nhà quê.” Tôi kiếm đồng hồ coi mấy giờ, không thấy đâu hết.
Thì ra Trà My lấy về bên nhà bà dì gần bên, táy máy làm sao mà rớt bể ra từng mảnh, lượm lên để trên
bàn giữa môt đám con gái nhỏ vây quanh xúm
lại bàn tán, không ai biết sửa. Hai đứa mò sang. Đám con gái đứng dậy riu ríu
rút lui. Trà My sợ hãi ngồi yên, nói nhỏ:
-Để em trả tiền,
đền lại cái đồng hồ cho anh.
Vũ không trả
lời, nghiêm trang ngồi vào bàn nghiên cứu, tìm cách ráp lại các mảnh vỡ. Tôi an
ủi My ,”Đừng lo, Vũ sẽ ráp lại được”.
-Mấy anh ở
thành phố giỏi quá, cái gì cũng biết làm. Đời sống ở đây buồn chán quá. Mỗi lần
em đi hái củi, thấy máy bay bay ngang, cứ nhìn lên tự hỏi những người trên đó ở
xứ nào, và bay đi đâu. Em tự hỏi cuộc sống ở chỗ khác có buồn như ở đây không.
Tôi thấy trên
tủ có mấy cái máy bay điêu khắc bằng gỗ xinh xắn, cầm lên ngắm nghía. My khoe,”Em
làm bằng tay đó”. Tôi hỏi:
-”Em biết đọc
không?”
-Dạ không. Má
em là cô giáo duy nhất ở vùng núi này. Nhưng má em chết trước khi em tới tuổi
đi học.
Vũ cầm con ốc,
quay lại ân cần nói:
-Anh sẽ dạy
em đọc, em chịu không?
-Em…sợ không
có thì giờ. Em phải may… giúp ông nội kiếm sống, đi chợ, nấu ăn….
Ráp xong cái
đồng hồ, Vũ kéo tôi về. My ngồi vào bàn, nhìn ra cửa sổ, bâng khuâng nghĩ ngợi.
Tôi chạy vào, xin My một cái máy bay bằng gỗ. My nhanh nhẩu đứng dậy, nhoẻn miệng
cười sung sướng:
-Anh Khoa đâu
cần hỏi em. Anh thích bất cứ cái nào, cứ lấy .
Một tuần sau,
trên huyện có tổ chức buổi kiểm điểm thành tích tiến bộ của các thanh niên xung
phong và thành phần được cải tạo lâu nay ở các xã đưa về. Ba đứa tôi đứng chụm
vào nhau dựa vách tường, nói chuyện thân mật. Bức tượng bán thân Hồ chí minh bằng
thạch cao để trên bệ cao trên sân khấu, trước lá cờ đỏ. Trên cao vách tường có
treo mấy tấm hình lộng kiếng của Karl Marx, Lenine, Staline, và Mao trạch Đông.
Một thanh niên đeo kiếng cận dày, dáng chừng là sinh viên như chúng tôi, lên sân
khấu phát biểu. My nói anh ta tên ”Bốn mắt”. “Bốn mắt “phát biểu oang oang:
-Cảm ơn bà
con.. Tôi tên Thành. Gia đình tôi gia đình trí thức phản động. Cha tôi từng là
văn sĩ bị nhà nước chỉ trích phê bình . Mẹ tôi là thi sĩ. Tôi được gửi lên đây
học cải tạo, lao động tốt, để trở thành con người mới.. Tôi đã học cày bừa, trồng
lúa bắp, chăn trâu. Lúc đầu con trâu làm tôi sợ lắm, nhưng bây giờ, tôi đã có đủ
bản lãnh kiềm chế được ngay cả con trâu cứng đầu nhứt…
Ông huyện ủy
ngồi ở bàn trên sân khấu, tay cầm điếu thuốc hút dở, đứng dậy kêu gọi đám đông
vỗ tay khen ngợi, rồi cất tiếng nói:
-Đây là một tấm
gương rất tốt.Tôi nhiệt liệt khen ngợi anh Thành đã phấn dấu học tập lao động tốt
sau 6 tháng qua. Anh ta bây giờ biết mang cả dép râu như chúng ta. Bà con nên
biết, cứ trong 100 người từ các gia đình xấu gửi lên đây học tập lao động, giỏi
lắm chỉ có 3 người… là thành công, có thể được trả về thành phố nay mai. Tất cả
nên noi gương anh Thành. Bà con cho một tràng pháo tay…
Đám đông bên dưới lại vỗ tay như bắp rang, kể
cả ông bí thư Bổn. Vũ nhìn tôi nói:”Họ ám chỉ mình đó Khoa”. My buột miệng:
-Em ghét thằng
cha đó.
Sáng hôm sau,
My lại khăn gói theo ông về Thiên Sơn. Mấy tuần sau, một hôm trong lúc chúng
tôi nghỉ trưa giữa giờ lao động, ông Bổn cho hay ở trên huyện cho người xuống
xã chiếu một phim Bắc hàn phụ đề tiếng Việt để thưởng cho đám “ thanh niên xung
phong” chúng tôi học tập tiến bộ. Ông yêu cầu hai đứa tôi coi phim xong, phải
thuật lại toàn bộ cốt chuyện cho đồng bào hiểu. Ông nhấn mạnh đây là công tác
chính trị, sẽ được ghi tốt vào thành tích học tập của hai đứa , không được coi
thường. Chúng tôi gặp ông nội My, xin cho em qua dự coi buổi chiếu phim hiếm
có. Ông già vuốt râu cười khà khà.: “véo lông, véo lông..” Đêm đó, ông cho My
qua ngủ lại nhà bà dì để coi phim. Đám đàn bà, nhứt là mấy cô gái bà con, bạn
bè ngồi với My sụt sùi khóc vì câu chuyện tôi và Vũ thay phiên kể lại quá sức cảm
động.. Mấy hôm sau, tôi mặc áo thun quần cụt đi tìm Vũ thì thấy Mi và Vũ đang nằm
dài thoải mái bên nhau dưới một gốc cây đầy bóng mát trong rừng. Tôi ngắt cọng
hoa thơm, nằm xuống một bên My, đưa tặng em. MY kê lên mũi ngửi. Nắng lọt qua kẽ
lá dọi lên áo quần ba đứa tôi. Quanh đó, hoa rừng tím đỏ nở lác đác. Hương lá sả
gội đầu từ tóc My thoang thoảng làm tôi ngây ngất. Hơi nóng từ da thịt My tỏa
ra ấm áp làm tôi rạo rực. Ba mái đầu xanh chụm lại, sáu con mắt nhìn lên trời
mơ mộng. Mấy con bướm trắng ở đâu bay tới, chập chờn trên mặt My và tôi. Tôi nằm
đê mê, ước thầm cho thời gian đừng trôi, cứ dừng lại mãi mãi. Bỗng My đưa tay
bóp chặt bàn tay tôi, khiến tôi rùng mình, rồi bàn tay kia nắm tay Vũ, thỏ thẻ
nói:
-Hôm nào hai
anh kể riêng cho em một truyện ngoại quốc nghen. Em mê nghe truyện ngoại quốc.
-“Em thích
truyện nước nào?.”tôi hỏi.” Pháp, Anh, Tây ban nha? Mấy nước đó tư bản, làm sao
anh được phép đọc mà kể? Anh chỉ đọc có tiểu thuyết Liên Sô, Trung quốc, Bắc
hàn, Balan.
-Em thích
truyện các nước tư bản thôi.
Vũ kể: “Hồi đầu
thập niên 70, các nhà sách bán nhiều sách Pháp, Mỹ dịch sang Việt ngữ rất hay nhưng
anh lại chưa có dịp đọc. Tới hồi 75, bắt đầu muốn đọc thì “giải phóng” vô, sách
vở loại đó bị chụp mũ “văn hóa đồi trụy”…họ đem đốt hêt.”
- Em biết một
thanh niên xung phong ở đây có dấu một valise đầy sách tư bản.
-Ai? Ai vậy?
-“Bốn mắt”. Hắn
nói cho em biết.
Thế là Vũ và
tôi tìm cách làm quen Thành, anh chàng cận thị, sáng nào cũng cặm cụi đánh trâu
đi cày ngoài ruộng, hỏi dò về valise sách. Thành có vẻ nghi ngại, làm bộ ngơ
ngác, chối đây đẩy. Sau cùng, hắn nói đã liệng valise sách đó xuống khe núi từ
lâu rồi. Tôi cho My hay, My nói giọng quả quyết:
-Mình tới nhà
hắn ăn cắp cái valise đó.
Hai đứa tôi
nhìn nhau chưng hửng, nhưng rồi để vui lòng My, hai đứa làm theo kế hoạch của
em. Đêm đó, Thành “Bốn mắt” lập được thành tích giết bò, uống máu tươi, cho bà
con có thịt mang ra chợ bán, My rủ bạn gái tổ chức một vài màn múa văn nghệ
chiêu đãi Thành để giữ chân hắn cho hai đứa tôi lẻn vô nhà lục lọi . Quả nhiên,
cái valise được hắn dấu một chỗ rất kín trong bếp, mở ra thấy toàn sách dịch của
Tolstoi, Balzac, Flaubert…Có cả một cuốn sách trị bệnh bằng thuốc Nam. Hai đứa mừng rỡ xách rương chạy vô rừng, gặp
My hồi hộp đứng chờ sẵn. Ba đứa về nhà thắp đèn lên, mỗi đứa chộp một cuốn. My dở
một cuốn, nhìn các bức họa, cười thích thú,”Em chưa hề thấy cái áo dài nào đẹp
như vầy..Anh Vũ, câu này nói gì vậy?”.
-“Đàn bà vừa
đẹp vừa thông minh là một điều hiếm có”.
-Ai viết vậy
anh? Cuốn này tên gì? Ước gì em biết đọc ...
-Balzac, nhà
văn Pháp, cuốn “Cousine Bette”.
-Ồ, nghe một
câu trong cuốn này đây: “ Sáng hôm đó,cách đây 349 ngày, toàn dân Paris đều thức
giấc vì các gác chuông của Paris đồng thanh vang lên rộn rã…”
-Trời, coi
đây. “Le rouge et le noir” của Stendhal.. Nội cái tựa đề nghe đã mê rồi.
-Nè coi, có cả ”Tội ác và hình phạt” của Dostoevski,
nhà văn Nga.
-“Paris là ở
đâu vậy anh?” My hỏi.
-Ở Pháp.
-Pháp ở đâu?
-Ở Âu châu.
Đêm đó, chúng
tôi cởi quần áo, lội sông vô rừng tìm chỗ dấu valise, đồ quốc cấm, không thể để
khơi khơi ở nhà được. My dành vác valise trên vai, vừa bơi vừa lội, hai đứa tôi
ôm quần áo lểnh mểnh theo sau. Cây cối chằng chịt.lối đi quanh co, My dẫn vô một
hang núi dây leo phủ gần kín cửa động, nói đây là chỗ dấu rất tốt. Dấu xong,Vũ
đặt tên hang này là “Động Sách”, đề nghị mỗi lần đọc truyện chỉ cần tới lấy ra
một cuốn đem về, lỡ có bị tịch thu chỉ mất một cuốn thôi..Ý kiến thật hay. Ngay
hôm sau, tôi để đèn, say mê đọc sách của Balzac đến 3 giờ sáng làm Vũ trằn trọc
mất ngủ. Vũ nói,” Với rương sách này, chắc chắn tụi mình sẽ biến đổi sơn nữ Trà
My thành con người khác”. Tôi cười đồng tình. Sáng ra súc miệng, tôi bảo Vũ:
-Bravo !
Khoái quá…Thế giới hình như hoàn toàn đổi khác với tao, trăng sao, núi non, cây
cối…tất cả không còn như cũ nữa. Ursula Mirouet,
nhân vật tuyệt vời…!
Vũ cười. Tôi
vươn vai, rống lên một tiếng vui mừng sảng khoái, âm thanh vang vọng tới các
vách núi lờ mờ sương trắng xa xa. Mấy
ngày sau, Vũ lên cơn sốt rét, run bần bật
đang lúc làm việc trong hầm mỏ, chắc là do đêm lội sông ngâm nước lạnh bị cảm.
Vũ rên hừ hừ:
-Chắc tao bị
“malaria”. Khoa, mày cõng tao ra khỏi hầm nghen… tao mệt quá.
Nghe nói Vũ bị
malaria, mấy ông chức sắc trong xã bắt Vũ ở trần đứng ngay bờ sông, rồi xô xuống
nước . Vũ run lật bật, lóp ngóp bơi vô bờ. Họ lại xô xuống, lên xuống như vậy 3
lần, nói là cho máu huyết lưu thông, rồi ông Bổn đích thân cầm thân cây bắp quất
túi bụi vào lưng Vũ để trục tà ra khỏi cơ thể theo lối trị bệnh cổ truyền địa
phương. Ông đánh Vũ mấy cái thì đứa con trai tên Minh ra kêu về ăn cơm, nên cả
đám bỏ về, ông giao tôi tiếp tục đánh. Tôi không nỡ quất Vũ, không tin lối chữa
mê tín đó, làm bộ quất nhẹ hai cái thì My ở đâu xuất hiện, dành làm công việc
đó. Tôi bỏ vô nhà, đứng sau cửa sổ, lén nhìn ra ngoài thấy Vũ đang ngồi, giựt
cây bắp quăng đi, ôm chầm lấy My kéo vào lòng, hôn tới tấp vào mặt vào cổ. My
lúc đầu còn vùng vẫy chống cự, sau cũng dơ hai tay ôm choàng lấy lưng Vũ, hai
người ôm chặt nhau say mê mấy phút làm tim tôi thắt lại, đầu óc choáng váng, vừa
ghen vừa buồn tê tái…lẳng lặng quay vô nhà ngồi gục đầu ôm gối thẩn thờ.
Mấy ngày Vũ bệnh,
tôi nấu cháo hành rắc tiêu thật cay cho Vũ ăn giải cảm. Ba hôm sau, Vũ khỏe, đi
làm lại. Tôi giữ ý, không dám quá thân mật với My, sợ hai người hiểu lầm. Nhưng
đi đâu, ba đứa vẫn cặp kè nhau như bạn thân, khi coi xi nê, khi đi dạo rừng,
lúc nấu ăn chung. Mỗi khi rảnh, Vũ và tôi thay nhau dạy My đánh vần tiếng Việt,
ráp chữ, cầm tay My viết những chữ đơn giản trên giấy. Một hôm,Vũ và tôi lại được
lệnh kể chuyện xi nê cho bà con nghe. Vũ kể truyện Pháp, nhưng nói láo truyện của
Albania, nước bạn chủ nghĩa xã hội của Việt nam, để ông Bổn khỏi thắc mắc.
-Người viết
truyện phim là Balzac. Tên nhân vật chính là Ursula Mỉrouet. BÀ con la to lên
cho nhớ nào. Balzac. Ursula Mirouet.
Dân chúng quê
mùa, nào biết Balzac là ai, Mirouet là ai, đồng thanh dơ tay hô to ”Balzac”, “Ursula Mirouet”, như hoan hô bác Hồ, bác Tôn,
làm tôi giả đò ho, quay mặt đi, ráng nín cười. Thấy gạt được bí thư xã dốt nát,
Vũ lần lần qua mặt ông trong nhiều chuyện khác. Đang cuốc trong hầm mỏ, thấy mệt
muốn nghỉ, Vũ rón rén vặn sớm đồng hồ 15 phút. Ông Bổn nghe chuông reng, vô tình
cho dọn dẹp cuốc sẻng nghỉ về nhà sớm. Một
hôm, Vũ rầu rầu tâm sự:
-Tao buồn
quá. Hôm đó, đang đọc Balzac cho My nghe thì ông nội nó về thình lình, ổng la
tao. Tệ hơn nữa, ổng đốt nguyên cuốn
“Old Goriot”.
-“Chấp làm
chi ông già lẩm cẩm. Lần sau nhớ cẩn thận hơn.” tôi an ủi.
Một lần khác,
My ngồi thật sát bên Vũ ở chân cầu thang nghe truyện. Vũ đọc;”Sự khác nhau giữa
kẻ quê mùa và người văn minh là “Tư tưởng”. Người quê chỉ có cảm giác, còn người
văn minh vừa có cảm giác, vừa có cả tư tưởng.” rồi ngẫm nghĩ mấy giây, khen
hay. Tôi báo cáo vụ ông nội My kỳ này muốn ở nhà hai đứa nửa tháng để may quần
áo, thay vi ở nhà dì của My như thường lệ. Vũ nói ngay:
-Ông già muốn
lục sóat nhà tụi mình đó”.
Quả nhiên, ở chung
nhà được hai hôm, ông thừa lúc không có ai, gọi Vũ nói riêng. Lúc đó tôi nằm
trên gác mà ông không hay. Ông nói:
-Tôi và cậu
em đã quá hiểu nhau rồi, phải không? Bây giờ tôi nói thật cậu điều này. Từ ngày
hai cậu kết bạn với cháu tôi, tánh tình nó thay đổi hẳn.
-Thay đổi thế
nào ông?
-Một hôm tôi về
nhà, bắt gặp nó mặc một cái áo lót thêu hoa, phần trên giống như cái nịt ngực
phụ nữ tân thời trên tỉnh, phần dưới ôm sát cái
bụng thon, chống nạnh nghiêng qua nghiêng lại , đứng cười ỏng ẹo ngắm
nghía trước gương, nói chuyện với một đám bạn gái trầm trồ sờ mó khen đẹp. Tôi lóng tai, nghe
nó nói:
-Áo
này tên “sú chiêng”, phụ nữ trong tiểu thuyết ai cũng mặc hết.
-Mặc
làm chi vậy?
-Để
làm cho bộ ngực cơi lên, cho thân thể tăng phần hấp dẫn. Kẻ quê mùa chỉ có cảm giác,
người văn minh vừa có cảm giác vừa có cả tư tưởng, nên mới sáng chế được nhiều
cái mới lạ, đẹp đẽ, đúng không?
Ông tiếp,”Tôi
nghe nó nói mà sợ quá, tay run lẩy bẩy. Không ngờ sách vở ảnh hưởng đến lối sống
con người đến mức độ đó”.
Vũ im lặng. Một
lát, ông già lại tiếp:
-Xin cậu đừng
đọc tiểu thuyết cho nó nữa. Tiểu thuyết không phải là thực tế. Hãy nghĩ đến
tương lai của cậu. Hãy dạy nó cái gì ích lợi thực tiễn, dừng dạy những thứ nhảm
nhí trong sách vở..
-Ở xó núi này
mà dạy gì có ích lợi đây, ông nội?
-Tôi sẽ dạy cậu
nghề may, một nghề rất tốt để nuôi thân.
-Ông muốn con
thành thợ may à? Con vụng về lắm, không may được đâu.
Ông già nín
thinh. Câu chuyện hai người tới đó là hết, nhưng mấy ngày sau, một tối ông lên
giường ngủ, tự dưng hỏi nhỏ tôi:
-Cậu Khoa, có
truyện nào hay kể tôi nghe với.
Tôi kinh ngạc,
châm thuốc hút, kể ông truyện “Kích tôn Sơn bá tước” của Dumas.
-Truyện này bắt
đầu từ năm 1815, ở Marseille…
-Marseille ở
đâu?
-Là một hải cảng
của Pháp, gần Địa trung hải.
-Sao xa quá vậy?
Sao không kể chuyện gần hơn, như Tam quốc Chí của Tàu hồi xưa.
-Thôi, con chỉ
biết truyện Kích tôn Sơn, ông không thích nghe thì mình đi ngủ vậy. Bonne nuit.
Vũ ghé nhỏ
tai tôi nói khẽ,” Ông già “mắc câu” rồi đó…Thôi tao ngủ trước, mày chịu khó kể
cho ổng...”, rồi vén mùng chui vào. Ông già quả nhiên năn nỉ,” Thôi được, cậu kể
cái gì cũng được.”
Truyện Monte
de Cristo tôi kể, hấp đẫn đến nỗi ông già mê man nằm nghe suốt 9 đêm liền không
chán. Ông quả là khỏe với tuổi 75, chòm râu bạc rung rung khi nói chuyện rổn rảng
với khách hàng. Ban ngày ông may cắt, phục vụ đông đảo bà con rộn ràng, ban đêm
say sưa lắng nghe truyện Dumas tới khuya, đến nỗi nghe truyện mà ông bắt đầu nhập
tâm, tưởng tượng ra những “designs” mới cho quần áo, như vẽ đầu mũi neo tàu thủy
trắng,cắt thêu túi áo quần xanh nước biển, chiếc ghe buồm thấp thoáng bên cây dừa
xanh, dựa theo các chi tiết tỉ mỉ Dumas mô tả trong truyện. Hè năm đó, một cơn
gió mát của Địa trung hải như quét ngang
qua làng Thạch hãn chúng tôi với các áo quần kiểu thủy thủ lạ mắt, quần ống loa
lệt bệt cho các thôn nữ lao động ngoài đồng …Nếu Dumas còn sống, chắc ông sẽ phải
ngạc nhiên, hài lòng về kết quả kỳ diệu mà tác phẩm ông tác động lên tâm hồn một
ông thợ may già ở núi Phước Sơn, tỉnh Quảng
nam. Các designs ngày càng trở nên tỉ mỉ, đài các, kiêu sa : áo lót thêu cánh
hoa huệ trắng, quần đùi rộng thêu cánh chim hải âu bay…Ông già say mê hỏi về
lâu đài tráng lệ của bá tước Cristo ở đại lộ Champs aux ELýsee, Paris, trầm trồ
khen cái tên thật đẹp..cho đến một đêm chúng tôi đang thì thầm về Cristo thì ông
Bổn thình lỉnh xuất hiện với ngọn đèn pin dọi vào mắt tôi,Vũ, và ông già. Ông
già lén nhích vô trong mùng, nằm xuống giả đò buồn ngủ. Hai mắt cú vọ ông Bổn
chòng chọc nhìn tôi:
-Mặc quần áo
vào, đi theo tôi. Tôi đưa cậu lên gặp công an huyện.
-Tôi có làm
gì sai trái đâu?
- Còn không
à?. Cậu kể toàn chuyện phản cách mạng. chuyện mấy thằng quí tộc, vua chúa độc
tài ngày xưa.
Vũ nhanh trí
mở gói thuốc lá, chồm ra mời ông Bổn hút. Ông không thèm nhìn , làm Vũ cụt hứng,
lựa lời nói:
-Không phải
đâu ông Bổn, chuyện vua chúa đó ở ngoại quốc, không phải ở Việt nam. Với lại,
Edmond trong chuyện là anh thủy thủ lao động nghèo, bị bọn cường hào ác bá bỏ
tù oan, sau trốn về lật đổ trả thù bọn này, đúng với lý tưởng cách mạng bác Hồ.
-Mày chỉ giỏi
cái miệng, bộ tao ngu lắm hả? Mau lên, Khoa, thay đồ đi theo tao.
Ông già ngồi
dậy nói,”Thưa ông bí thư, tôi cũng có lỗi, lẽ ra không nên nghe những chuyện
văn hóa đồi trụy như vậy. Xin ông tha lỗi cho cậu ta”.
Ông Bổn làm
ngơ như không nghe, nhìn Vũ hạ giọng;
-Thôi được,
tao cũng không phải hạng người độc ác. Muốn tao tha cho bạn mày thì giúp tao
chuyện này. Cái răng hàm tao sưng, hành nhức nhối mấy hôm nay. Mày con nha sỹ,
chắc biết cách chữa…Đây là một miếng thiếc vụn để mày trám cái răng sâu dùm tao.
Ông móc túi lấy
ra miếng vải con gói cục thiếc nhỏ bên trong, đưa Vũ. Thế là hôm sau, để cứu
tôi, Vũ phải hì hục chế ra cái máy khoan điện “ dã chiến” nhờ vào bánh xe bàn máy may My đạp quay vù vù, tạo từ
trường điện để nạo cái răng hàm bị sâu ăn của ông Bổn, còn tôi thi nướng mấy miếng thiếc vụn trên cái chảo nhỏ trên lửa cho chảy
ra, để khi Vũ hô lên thì kê vô lỗ răng sâu mà đổ vào. Ông Bổn bị cột tay chặt
ngồi trên ghế, chốc chốc hét lên vì đau, nhưng phải ráng sức chịu đựng vì không
có thuốc tê. My nghe lời Vũ, châm một điếu thuốc cho ông hút để gây tê chỗ mới
trám.
Cuộc trám răng dã chiến thành công sau hai tiếng
đồng hồ làm việc vất vã của ba chúng tôi.. Ông Bổn không kêu ca gì, lại còn đi
khoe mọi người về cái răng mới nhai được thức ăn và đêm ngủ ngon lành tới sáng.
Vũ nghiễm nhiên trở thành ông “đốc tờ” của xã từ đó. Con bệnh kéo đến la liệt trước nhà
nhờ trị bệnh. Vũ sợ quá, rúc trong nhà. Tôi phải thuyết phục cố gắng chữa để có
lộc ăn, vì bệnh nhân mang thức ăn ê hề tới đền ơn chữa bệnh, con gà, chục trứng,
ký thịt heo, chai mật ong, ngay cả kẻ nghèo nhất cũng mang 2 bó bún khô tới biếu
trả công, tội gì mà không nhận để “cải thiện” khẩu phần. Vũ sực nhớ lại cái
valise dấu ở hang núi có cuốn sách y học chữa bệnh của Lãn Ông, bèn vui vẻ đồng
ý làm ông thày lang bất đắc dĩ. Ông Bổn thấy vậy, cho phép Vũ ở nhà trị bệnh
luôn, khỏi đi lao động. Ông nói xã rất cần có một bệnh xá. Cuốc đất, gánh phân,
hái bắp…ai cũng làm được, nhưng chữa bệnh cho dân làng là một công việc không
phải dễ, không phải ai cũng làm được.
Nhưng ông đã
không may bị thương nặng trong hầm mỏ sau đó mấy ngày, lúc đang cố gắng bảo vệ
pho tượng bác Hồ nguyên vẹn khi nóc hầm sập. Bà vợ khóc rú lên, người ông đầy
máu me khi anh em phu mỏ lôi được ông ra khỏi hầm. Ông nằm dưới nhà thương huyện
một tháng, nên công việc dồng áng vì vậy mà trì trệ lại, bà con làm tàn tàn cho
có lệ, đi trễ về sớm, có khi lấy cớ đau ốm nằm nhà chơi.. Vũ và tôi cũng thừa
cơ hội, như chim sổ lồng, tung tăng đi chơi với My suốt ngày. Vũ và My chiều
nào cũng ra ngoài hồ nước bơi lội, ôm ấp quấn quýt bên nhau. Tôi biết sự có mặt
của tôi trong cuộc chơi tay ba không cần thiết, nên đôi lúc cố tình chơi riêng
ra.Tôi quen một bác xay bắp tại nhà, biết
chơi đờn cò, nên cả ngày lẩn quẩn vói ông hát hò, trao đổi bàn luận âm nhạc, có
lần tới khuya, quên hẳn cặp giai nhân tài tử. Sau hôm đó, tôi để ý thấy Vũ và
My mỗi lần thấy tôi có ý ngượng ngùng, nhìn đi nơi khác. Không biết chuyện gì xảy
ra, tôi cũng không tiện hỏi. Một hôm Vũ nhận được điện tín ông già đau phải nhập
viện ở Đà nẵng, nhưng không dám cho My hay. Lúc ba đứa ra bờ suối nướng bắp ăn,
Vũ mới ấp úng cho My hay ông Bổn cho
phép về thành phố 2 tháng để lo cho cha bệnh. My thảng thốt kêu:
-”Tới những 2
tháng lận?
-Cũng …có thể
sớm hơn, biết đâu chừng”.
-”Ba anh ăn
thịt rùa nướng sẽ khỏi bệnh ngay. Để em bắt rùa cho.
Nàng liền nhảy
ùm xuống sông, lặn một lúc rồi trồi lên, ném lên bờ một con rùa to ngo ngoe,
suýt xoa đưa bàn tay chảy máu đầm đìa vì rắn cắn, thở hổn hển kêu đau. Vũ vội
vàng lấy dây cột chặt bắp tay My để chận nọc độc khỏi chạy lên tim, còn tôi lật
đật kê miệng ngay vào vết cắn, hút sạch máu độc, nhổ ra, rồi lại hút tiếp, nhổ
ra… khiến nàng xúc động nhìn tôi âu yếm. Hôm sau, My ra lộ vẫy tay đón xe cho
Vũ xách ba lô quá giang về thăm cha. Tôi bước theo sau My. My hấp tấp chạy theo
xe, níu tay Vũ, mếu máo khóc nói với theo,”Em có chuyện này chưa kể anh nghe, anh
Vũ.. Anh nhớ về sớm ….”
Còn lại tôi và My quanh quẩn bên nhau sớm hôm
trong căn nhà ấm cúng. Tôi đọc sách, dạy chữ, đàn violon cho nàng mỗi ngày.
Nàng nắn nót viết được chữ “Em Yêu Anh” làm tôi khoái chí . Tôi đọc “Madame
Bovary” cho My,say sưa với cách tả nhan sắc tỉ mỉ của Flaubert, tự coi mình như
Charles Bovary, anh chồng y sĩ cù lần, tốt bụng, bị cô vợ đẹp Emma cắm sừng. Tôi
coi My như Emma, thích se sua, chuộng thời trang, chưng diện, lãng mạn. Đó là
thời kỳ hạnh phúc nhất của tôi ở đó, được độc quyền săn sóc My, chiều chuộng
My, giữ gìn My không để trai làng chọc ghẹo theo lời dặn của Vũ, nhưng nàng
hình như có vẻ lo âu, sợ hãi điều gì. Một hôm, My tới ngồi bên tôi, sắc mặt bối
rối, cúi đầu nói khẽ:
-Anh Khoa, chắc
là em… có bầu..Sáng nay em ói mửa mấy lần.
Tôi choáng
váng, đánh rơi cuốn sách xuống đất. My ôm mặt nói tiếp:
-Em mất kinh hai
tháng nay. Ông em mà biết, ổng giết anh Vũ mất. Có nước em bỏ làng đi…
Tôi bàng hoàng, sững người nhớ lại những đêm
Vũ và My ăn mặc hở hang, ôm eo ếch nhau bơi lội ngoài hồ vắng liên tục nhiều
ngày. Tôi hình dung lại tia mắt không tự nhiên của My mỗi lần thấy tôi mấy lúc
gần đây. Vũ chớ hề kể tôi nghe hai người đã làm những trò gì . Thì ra họ đã lén
lút làm “chuyện đó”. Trai tài gái sắc, trăng thanh gió mát, thiên nhiên hữu
tình, làm sao mà tránh khỏi phút rạo rực, xuân tình phơi phới. My sắp có con, ở
tuổi mới 18. Vũ biết chuyện này chưa, sao lại bỏ đi, để lại
cho My “của nợ” này, giao tôi trách nhiệm phải giải quyết. Hay là Vũ biết, nên
lấy cớ cha đau để quất ngựa truy phong? Tôi làm sao bây giờ? Tôi gượng gạo
nói,” Đừng lo…Để anh tính.” Rồi bỏ đi, nước mắt ràn rụa, tránh không cho My thấy.
Tôi thương em quá. Tôi xót xa thừ người ra, tự dưng oán giận Vũ vô cùng. Câu
nói của My cứ văng vẳng bên tai :”-Nếu ông em biết được, ổng sẽ giết anh Vũ mất.”
Tôi chợt nhớ tới huyện Phước sơn có nhà thương lớn, bèn cầm theo hai cuốn sách
dịch truyện Flaubert và Balzac, đón xe xuống tìm bác sĩ sản khoa. Bênh viện tồi
tàn dơ dáy, bệnh nhân ngồi lê la ra cả ngoài hành lang. Tôi hỏi thăm, gặp được
bác sĩ sản khoa, trình giấy tờ, tự giới thiệu là con thầu khoán “ngụy” ở Đà nẵng
đi cải tạo lao động ở Thạch hãn, nhờ ông giúp trục thai cho cô bạn gái. Ông
trông cũng hiền từ, kéo tôi vô phòng khóa cửa lại, lắng nghe tôi kể lể. Tôi đưa
ra 2 cuốn sách dịch ra để làm tin, xưng là sinh viên con nhà tư sản, mới 21 tuổi,
không phải con nhà cách mạng. Ông chăm chú coi giấy tờ tôi và ba tôi, lướt mắt
đọc tựa đề cuốn sách, nói:
-Tôi biết Hoàng
hải Thủy, người dịch sách này, ông bị coi là trí thức phản động, kẻ thù của
nhân dân, cũng như ba em…
Tôi quay mặt
ra cửa sổ, bỗng nghẹn ngào ứa nước mắt khóc, không hiểu tại sao, vì ông nói ba
tôi là kẻ thù nhân dân, hay vì hoàn cảnh đáng thương của My mà tôi phải lặn lội
tới đây, hạ mình năn nỉ ông cứu giúp, hay vì người tôi yêu chưa kịp hưởng đã bị
phỗng tay trên, vì người khác “ăn ốc”, còn tôi phải đi “đổ võ”... Viên bác sĩ thấy
tôi khóc, xiêu lòng, ngẫm nghĩ một lúc rồi an ủi tôi:
-Em còn trẻ
quá. Tương lai còn dài. Tôi sẽ giúp. Nhưng ở đây, tôi không dám làm. Tôi sẽ làm
chuyện đó ở nhà riêng. Sáng thứ bảy này, khoảng 10 giờ, em mang cô ấy tới chợ huyện,
hỏi nhà bác sĩ Cơ, gần bến xe đò, người ta chỉ cho. Càng sớm càng tốt.
Thứ bảy, tôi
mượn chiếc xe đạp đòn dông, chở My đi, nói dối ông nội đưa My coi một phim hay
chiếu ở huyện, mang theo cái đàn violon. Bác sĩ kín đáo giải phẩu tại nhà,
thuôc men khử trùng đầy đủ. Sau mấy tiếng đồng hồ ngồi phòng khách chờ đợi, tôi
thấy My chậm chạp bước ra, da tái xanh, thẹn thùng, mặt ướt đẫm mồ hôi. Bác sĩ
đưa tôi cái khăn lông lót đòn dông để My ngồi cho êm. Ra tới chợ, tôi móc túi cho
My tờ 20 ngàn, nói, “còn sớm, mình ra phố, em có muốn mua gì thì mua”. My hỏi:
-Tiền này ở
đâu anh có ?
-Anh bán cái
violon rẽ cho bác sĩ.
-Trời, “violon”
mà bán có 20 ngàn sao?
-25 ngàn, anh
giữ lại 5 ngàn trong túi. Đúng ra, anh biếu bác sĩ cây đàn đền ơn, nhưng ông
cho lại chút tiền này.
My cảm động,
kê môi hôn vào má tôi, ứa nước mắt nói:” Anh tốt với em quá”.
Một tháng
sau, Vũ ở Đà nẵng về, đem mấy chai rượu đắt tiền làm quà cho ông Bổn và ông nội
My. My dọn tiệc mừng, cả nhà ăn uống vui vẻ. Tôi và My đều không hé răng nói
chuyện có bầu, chuyện đi gặp bác sĩ với Vũ. Vũ cười khen tôi đã săn sóc tốt cho
My, dạy My đọc tiếng Việt khá sõi và giọng nói cũng bớt quê mùa. Tôi chỉ cười
gượng.. Chúng tôi sống êm đềm tay ba như thế thêm hai tháng nữa thì một hôm, My
áo quần khăn gói tươm tất, để ông nội lại, lẳng lặng bỏ lên thành phố đi mất,
không một lời từ biệt.
***
Sau 2 năm lao
động trên núi, hai đứa tôi được cấp bằng khen thưởng hoàn tất chương trình, về
lại thành phố. Ba tôi đã dọn vào Saigon sống, nên tôi vào theo. Ông lo lót cho
tôi đi vượt biên trót lọt qua Mỹ năm 81. Tôi đem theo cái máy bay nhỏ xíu của
My làm kỉ niệm. Ba Vũ được lưu dụng làm nhà thương lớn ở Đà nẵng. Vũ vô Saigon đi
học lại, đậu vào Nha khoa, ra trường đỗ thủ khoa. Ở Mỹ, tôi mất liên lạc nhiều
năm với bạn bè, vừa làm vừa học âm nhạc ở
college, trở thành giáo sư dạy dương cầm ở đại học Fresno năm 87, mua nhà lầu,
xe láng, lấy vợ đẹp. Tôi và một số nhạc sĩ Mỹ nổi tiếng hay đi trình diễn âm nhạc
ở các thành phố lớn khắp nước Mỹ. Vợ tôi làm bác sĩ gây mê ở nhà thương, được
hai con gái. Tôi bảo lãnh ba mẹ qua Mỹ, nhưng không hề trở về thăm Việt nam lần
nào. Chế độ độc tài công an trị tham nhũng thối nát làm tôi ghê tởm. Thỉnh thoảng
tôi lôi cái máy bay đẽo bằng tay ra ngắm nghía. Hình bóng Trà My và những kỉ niệm
khó quên ở Phước Sơn ngày xưa lâu lâu chập chờn hiện ra trong giấc mơ. Tôi nghe
nói Vũ có phòng mạch tư ở Saigon, vợ và một con trai, cuộc sống khá giả. Nam
bán địa ốc ở Saigon, còn Quy đã đổi lên Đalạt dạy.
Năm 2006, tôi
coi news các đài Viêt nam trên Tivi thấy tin Quảng Nam có project xây đập thủy
điện lớn ở Phước Sơn, giải tỏa di dân nhiều làng xã trong có Thạch hãn và Thiên
Sơn, xả nước sông tràn ngập thung lũng làm đập, mực nước sẽ lên cao đến lưng chừng núi. Tự dưng tim
tôi thắt lại, như ngày nào tôi bắt gặp Trà My ôm Vũ hôn say đắm ở bờ sông Thu bồn.
Đầu tôi choáng váng, như ngày nào My báo tin có thai ở căn nhà gỗ thô sơ bên
triền núi Thạch hãn. Ba mươi năm qua, mặt tôi đã già đi, chân tóc lên cao, nét
nhăn ở đuôi mắt xuất hiện, nhưng tim tôi vẫn còn in chặt hình ảnh ngây thơ
duyên dáng của Trà My, hàm răng trắng tươi cười, nũng nịu, con mắt trong xanh,
thông minh. Ba mươi năm, đầu tôi vẫn còn vương vấn mây bay, bướm trắng, cây
xanh, núi biếc ở Thạch hãn.Tôi quyết định phải trở về Phú Sơn, Thạch hãn một lần
để thăm lại cảnh cũ, người xưa, coi ai còn, ai mất, trước khi Thạch hãn bị chôn
vùi xóa nhòa dưới biển nước cuồn cuộn. Tôi vô một tiệm ở phi trường L.A, lựa
mua làm quà cho My một lọ nước hoa thơm đắt tiền của Pháp. Trà My nghe tin làng
xóm bị giải tỏa, xây đập thủy điện, thế nào cũng quay về chốn cũ như tôi. Không biết nàng có chồng
chưa, còn sống, hay đã chết phương nào.
Đà nẵng đã thay đổi nhiều, nhà cửa dinh thự
chi chit, xe cộ tấp nập, người đông như kiến. Ngôi nhà cũ của ba tôi, cán bộ đảng
viên ở. Tôi lần mò lên dốc núi đầu làng Thạch hãn, cầm chiếc máy quay phim, thấy
phiến đá trắng cũ vẫn còn nằm đó, lấy tay rờ vuốt âu yếm, trong lòng bồi hồi
xúc động. Những vách núi cao còn đó, hồ nước xanh veo còn kia, dưới đáy thung
lũng xanh ngắt. Mây trắng vơ vẩn, vài cánh chim bay ngang sườn đồi, nhà ai nấu
cơm chiều khói bốc lên ở cuối thôn. Nhà cửa tiêu điều, có lẽ một số dân đã sớm
bỏ đi trước. Tôi thấy lại ngôi nhà ông Bổn, đã tàn tạ, bước vào gặp một phụ nữ
khoảng 30 ngồi xếp giấy bên đứa con 2 tuổi,
bèn tự giới thiệu:.
-Tôi là Khoa,
28 năm trước có đi “thanh niên xung phong” lên làng này ở 2 năm, nay tôi lên
thăm, muốn tìm lại người quen…Cô là…?
-Em mới về
nhà này có 10 năm. Chồng em là Minh.
--Ủa, Minh,
con trai ông Bổn? Vậy ra cô là dâu ông Bổn?
Người đàn bà
trẻ tươi hẳn nét mặt, đứng lên nói tíu tít:
-Dạ phải. Em
tên Hoa. Ba em qua làng bên có việc, anh Minh xuống huyện mua pháo về đốt tối
nay. Hai tuần nữa, làng mình và mấy làng gần đây phải di tản, chánh quyền xả nước
ngập thung lũng làm đập. Em đang xếp mấy cái thuyền giấy để tối nay thắp nến
mang ra thả dưới hồ, đưa tiễn vong linh người chết lần cuối cùng.Tối nay đông lắm,
mời anh xuống chơi, biết đâu gặp lại người anh muốn tìm….
Tối trời, tôi
ra bờ hồ đông người, lang thang hỏi quanh tìm ”Cô thợ may bé nhỏ”. Vài cô gái dẫn
tới một cô bé khoảng 20 tuổi lạ hoắc cúi đầu chào tôi. Tôi bật cười lúng
túng,”Không phải cô này, xin lỗi”. Trên mặt hồ, vô số các thuyền giấy ghi tên
người quá cố gắn đèn cầy lung linh sáng, dật dờ trôi nổi, tạo nên một quang cảnh
ấm cúng huyền hoặc, làm tôi cảm động. Tôi gặp Hoa đứng đó lâm râm cầu nguyện.
Hoa nói mai tôi lên chùa tìm các bài vị người chết ký thác đọc, xem có tên Trà
My không, biết đâu chị ấy đã chết rồi. Sáng, tôi lên chùa tìm khắp các bàn thờ,
không thấy tên My. Tôi chụp hình, quay phim cảnh cũ, người xưa…Hang núi, “Động
sách”, bờ hồ, bờ sông… Ông Bổn đã già, hàm răng rụng gần hết, mừng rỡ nhận ra
tôi, ông nội My đã chết từ lâu, ông chủ cối xay nhạc sĩ “đờn cò” vẫn còn sống, tóc
rụng gần hết, khảy tứng tưng cho tôi nghe bản nhạc ngày xưa….
Tôi mua vé
bay về Saigon, vợ chồng Vũ và đứa con trai 15 tuổi ra Tân sơn Nhất đón. Hai đứa
mừng mừng tủi tủi ôm chặt nhau. Cả hai đều mếu máo. Bao nhiêu kỉ niệm ồ ạt sống
lại cuồn cuộn trong đầu làm tôi choáng váng. Vũ đã đeo kính, cao lớn chững chạc
ra, nhưng vẫn còn đẹp trai phong độ, mái tóc để dài phong trần, ăn mặc sang trọng.
Vợ con Vũ ngồi băng trước xe hơi, vợ đích thân lái . Vũ và tôi ngồi băng sau, nắm
tay, ngửa đầu ra lưng ghế, nói chuyện không ngừng.
-Nghe nói mày
bây giờ làm ăn lớn và nổi tiếng lắm …
Vợ Vũ cười khoe:
-Ngoài phòng
mạch, ảnh còn dạy đại học Nha, còn được bầu làm chủ tịch Ban giảng huấn nữa .
Nàng đưa tôi về nhà ở quận 5, ngôi nhà lầu 5 tầng
đồ sộ tráng lệ, hối hả xuống bếp chỉ huy người làm nấu ăn.Tối đến, sau bữa cơm
thịnh soạn, tôi và Vũ khề khà nhấm nháp rượu nho ngồi trước Tivi, tôi bỏ video
disk quay cảnh ở Thạch hãn vào máy cho Vũ xem. Núi xanh thác nước hiện ra. Tôi
cười,”Đây là nơi 2 cậu sinh viên nghèo đi cải tạo, còn nhớ không?” Hình mấy chị
đàn bà hiện ra, tranh nhau nhắc kỉ niệm về 2 cậu sinh viên lao động,. Tiếng nói
léo nhéo,”Có 2 cậu, một cậu rất đẹp trai, tên như là Vũ, khéo tay lắm, biết chữa
bệnh. 2 cậu đều yếu ớt mảnh khảnh, nhưng kể chuyện rất hay, có lần kể truyện
phim làm tụi này khóc sụt sịt như con nít…” Vũ phì cười, chớp chớp mắt. Tôi hỏi:
-Nhớ ông này
không?
Vũ lại cười.
Đó là ông Bổn, mắt mờ, râu bạc, há miệng trơ trọi ba cái răng cửa chìa lởm chởm, tay cầm cái đồng hồ reo ngày xưa Vũ
để lại, khen nó còn chạy tốt, đồ tư bản làm thiệt là bền. Tiếng tôi trong máy,’Không
đâu, nó trễ 20 phút rồi.”Tiếng ông Bổn,”Vậy sao? Để tôi vặn thêm. Nó đã già rồi,
cũng như tôi vậy mà”. Vũ bỗng kêu to:
-Coi kìa, cái
răng hàm tao trám cho ổng vẫn còn kìa.
Chuyển qua
hình ông cối xay nhạc sĩ đờn cò ngồi trước căn nhà lụp xụp,tay đờn,miệng hát
nghêu ngao..Rồi ngôi nhà sàn ngày xưa hai đứa ở, cánh cửa sổ quen thuộc tôi đã
từng ở đó nhìn trộm ra ngoài thấy My và Vũ ôm nhau hôn. Vũ ngây người ra cảm động.Tôi
thở dài:
-Ông già thợ
may chết rồi.
Rồi hình hang
núi mờ mờ dây leo hiện ra. Vũ thảng thốt:
-Trời ơi, “Động
sách” của tụi mình …
-Khi tao quay
chỗ này, tao nghe như có tiếng người nói lao xao trong đó. Tao sợ quá.
Vũ giật mình
quay nhìn tôi:”Tiếng ai vậy?”.Tôi tựa đầu vào đầu Vũ, choàng vai bạn, thì thầm,”Tiếng
của tụi mình, cách đây 28 năm…” . Vũ bỗng nói như mếu:
-Hôm đó….hôm
đó, mày nhớ không, mình đang ngủ trưa, ông già hốt hoảng lôi dậy, khóc lóc nói
My bỏ đi rồi, đi tìm một cuộc sống mới. Ông năn nỉ mãi, nó cũng cứ đi. Mình chạy
theo, thấy nó cắt tóc cụt ngủn, mặc quần jeans thêu hình mũi neo, vai đeo cái
túi vải hồng. Thấy tao tới, nó đứng lại cúi gầm mặt. Tao hỏi sao cắt tóc ngắn vậy,
nó nói nó thích vậy. Tao hỏi ai mua cho nó đôi dép mới, nó nói anh Khoa mua. Tao
hỏi tại sao đổi ý, ai làm nó đổi ý, không muốn ở lại đây nữa, nó nói,”Hai anh sắp
mãn hạn về lại thành phố rồi, em ở đây với ai”, nó nói Balzac, Flaubert làm nó
muốn đi, đi để tìm tương lai sáng sủa hơn.Tao bảo,”Nhìn mặt anh nè, em đã quyết
định kỹ chưa?” Nó ngước đầu lên. Tao rươm rướm nước mắt, nói,” Anh yêu em nhiều
lắm, em có biết không? Sao em nỡ bỏ đi không một nói tiếng nào?” Nó thở dài
quay đi nhìn xuống thung lũng. Tao ngồi xuống đau khổ, nó vác cái xách lên vai,
tới gần nói,”Anh săn sóc ông nội giùm em. Cho em gởi lời thăm anh Khoa. Anh
ráng giữ gìn sức khỏe, em ra tỉnh sống biết tự lo, không có sao đâu.” My hôn
vào má tao một cái, xoa đầu tao, rồi quả quyết đứng dậy hấp tấp xuống núi. My
nói Balzac, Flaubert dạy nó rằng “nhan sắc người đàn bà, cọng với trí thông
minh, là môt kho tàng vô giá, và tuổi xuân rất ngắn ngủi, nếu không biết nắm cơ
hội, sẽ uổng phí một đời…”
Vũ thở dài, tháo
kiếng cận, ngửa cổ lên trần nhà, trầm giọng kể tiếp, hai mắt ướt đẫm:
-Năm 83, tao
có đi tìm My. Nghe nó bỏ Đà nẵng vào làm việc ở Biên hòa. Tao tới đó mấy ngày, kiếm
cùng không thấy. Có kẻ nói nó theo ai vượt biên qua Mỹ rồi.
Tôi ngồi cứng
đờ. Vũ lấy tay dụi hai mắt đỏ hoe:
-Mày cũng yêu
My vậy, phải không?. Mày không hề nói ra, nhưng tao biết.
Vũ thở ra một
hơi dài não nuột. Tôi bối rối, hớp một hớp rượu;
-Hình như vậy…
Chỉ có điều…hai đứa mình, mỗi đứa yêu My một cách khác nhau.
Mấy ngày sau,
tôi kéo Vũ đi thăm Nam, bạn học cũ. Hai mắt Nam gần như mù, ăn cơm không thấy
thức ăn, vợ phải gắp bỏ vào chén. Nam kể mắt bị cườm từ lúc trẻ, về già trở nên
nặng, hai ba ông bác sĩ mắt Việt nam đoán bệnh sai, cho thuốc bậy, làm nặng
thêm, phải đi Singapore mổ, cũng không bớt, phải qua Mỹ, tốn hết 10 ngàn “đô”,
cũng tiền mất tật mang, bác sĩ Mỹ nói mấy bác sĩ trước trị bệnh sai, nên bây giờ
quá trễ. Hai đứa lên Đàlạt tìm thăm Quy, giáo viên Lý hóa về hưu non vì bị
stroke, phải ngồi xe lăn, gia cảnh nghèo túng. Hai đứa giúp cho Quy một số tiền
làm vốn mở quán nước trước nhà sinh sống rồi về lại Saigon. Đêm cuối ở nhà Vũ
trước khi về lại Mỹ, là ngày họ xả nước sông ngập thung lũng ở Phước Sơn làm đập,
tôi bỗng dưng nằm mơ thấy chiếc máy may quen thuộc của ông nội My nổi lên trong
căn nhà ngập nước, nước cứ từ từ tràn lên, lọ nước hoa đắt tiền tôi mua cho My
quay cuồng trong nước lăn tăn sủi bọt, chiếc violon chìm xuống. Tôi thấy lại
tôi trẻ măng đứng đàn violon say sưa bên cạnh Vũ ngồi chăm chú đọc truyện cho
My ở chân cầu thang, My mặc áo cụt hở vai, hai mắt lim dim, ngả đầu lên vai Vũ,
bàn tay búp măng chống cầm xinh xắn. Nước cứ từ từ lên theo tiếng đàn ai oán, réo
rắt của tôi quá cửa sổ, quá cửa lớn, rồi vượt luôn lên khỏi mái nhà ngói âm
dương cũ kỹ, xóa nhòa mọi hình ảnh thân thuộc, chôn luôn mối tình si dại khờ của
tôi tuổi đôi mươi, chôn luôn vĩnh viễn dĩ vãng thơ mộng thời thanh xuân không
bao giờ quên được của bộ ba chúng tôi.
Mùa thu năm
nay, 2010, coi Tivi, tôi lại nghe, thấy miền Trung mưa to gió lớn trên núi vì
dân nghèo chặt rừng bừa bãi lở đất, các đập thủy điện ở thượng nguồn xã lũ vô tội
vạ làm Quảng nam, Quảng ngãi đắm chìm trong biển nước mênh mông, hàng trăm ngàn
dân trôi cửa mất nhà, đói khát bệnh tật, chết chóc…Nếu My ở lại, có lẽ cũng đã
là một trong đám nạn nhân lũ lụt kia, hai bàn tay trắng. Hình ảnh biển nước
mênh mông đục ngầu phủ kín làng mạc thôn xóm trên tivi, chừa lại đôi ba nóc nhà
lác đác, làm tôi đau xót nghẹn ngào. Ôi Quảng nam, ôi quê hương tan nát điêu
tàn.Tôi bùi ngùi nhớ lại cái thung lũng Thạch hãn bốn năm trước đã một lần bị
nhận chìm dưới đáy nước, giờ đây mọi sự như lại đang tiếp tục tái diễn, lan rộng
xuống bờ biển, cả miền Trung hầu như chìm đắm trong nước lũ, đói nghèo ... Tôi nhớ tới sự ra đi của Trà My, sự biến mất
vĩnh viễn của Phước Sơn với những bộ xương người thân quen chôn dưới lòng đất,
hiểu rằng mọi sự tới rồi đi, không bao giờ trở lại, hạnh phúc con người chỉ đến
có một lần trong đời, tất cả đều vô thường…. Hình bóng duyên dáng của My đi qua
đời tôi có một lần rồi mất hút, như cánh chim bay cuối trời biền biệt. Lần đầu
tiên tôi nhận ra My hoàn toàn có lý khi can đảm sớm quyết định bỏ làng ra đi lúc
còn trẻ để tìm tương lai, như tôi đã một lần bỏ nước ra đi kiếm tìm tự do ba
mươi năm trước đây...
Phạm Hoàng Chương