Tâm Xuân - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
(Thơ
& trích đoạn khơi sáng tư tưởng Đại thừa)
Giọt
Sương Xuân
Giọt
sương long lanh
Lấp
lánh Vĩnh Hằng
Thức
nhành mai dậy
Huy
hoàng sắc xuân.
Lễ
Chùa Đầu Xuân (*)
(Thơ
thiếu nhi)
Không
đì đùng pháo nổ
Ngày
xuân thật hiền hòa
Tiếng
chuông chùa chúc Tết
Lời
bình yên ngân nga
Em lên
chùa lễ Phật
Cầu
năm mới thiện lành
Bớt
tham sân si mạn
Thêm
nụ cười tâm xuân
Em lên
chùa lễ Phật
Nghe
chan chứa tình người
Yêu
từng lời cây cỏ
Thương
từng trái tim đời…
Không
đì đùng pháo nổ
Ngày
xuân thật hiền hòa
Tiếng
chuông chùa chúc Tết
Lời
bình yên ngân nga.
---
(*): “Có
thể có tinh thần tôn giáo mà không theo tôn giáo
nào,
tín ngưỡng nào”. (Đường
về minh triết; Tuệ Thiền).
----------
Tuệ
Thiền (Lê Bá Bôn)
-----------------------------
PHẦN
ĐỌC THÊM
(GÓP
PHẦN KHƠI SÁNG TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA)
* Một
ngày nào đó của thiên niên kỉ thứ 3, con người sẽ hỏi đâu là sự khám phá quan
trọng nhất của thế kỉ 20 đối với nền văn minh Tây phương, khi ấy câu trả lời
không phải là sự khám phá ra năng lượng nguyên tử, cũng không phải là sự khám
phá ra những vũ trụ song đối, mà chính là sự khám phá về trạng
thái tự do tối thượng của bản thể con người. (Question
de Albin Michel số 77/1989; Nguyễn Thế Đăng dịch).
*
Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới,
nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh
Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân
loại một nền văn minh mới”. (Báo
Giác Ngộ số 15/1991).
* (…)
Kết luận được rút ra từ thí nghiệm này là hết sức đặc biệt: con lắc Foucault
điều chỉnh hành trạng của nó không phải theo môi trường tại chỗ của nó, mà là
theo các thiên hà xa xôi nhất, nghĩa là theo toàn vũ trụ,
bởi vì hầu hết khối lượng nhìn thấy của vũ trụ không phải nằm trong các ngôi
sao ở gần mà trong các thiên hà xa xôi. Nói cách khác, cái được chuẩn bị xảy ra
ở Trái đất đã được quyết định trong khoảng vô tận của vũ trụ, nghĩa là cái đang
xảy ra trên hành tinh nhỏ bé của chúng ta phụ thuộc vào tổng thể các cấu trúc
của vũ trụ.
Tại sao con lắc Foucault lại có hành trạng như vậy? Cho tới nay người ta vẫn
chưa tìm ra câu trả lời. Nhà triết học và vật lí học người Áo Ernest Mach (mà
tên của ông đã được dùng làm đơn vị đo các vận tốc siêu thanh) đã thấy ở đó một
loại hiện diện khắp nơi của vật chất và ảnh hưởng của nó. Theo ông, khối lượng
của một vật - đại lượng đo quán tính của nó, tức là khả năng chống lại sự thay
đổi trạng thái chuyển động - là kết quả tác động của toàn vũ trụ lên vật này.
Đây là cái mà người ta gọi là nguyên lí Mach. Khi người ta cố sức đẩy một cái
xe ôtô, thì sự chống lại chuyển động của ôtô xuất phát từ toàn bộ vũ trụ. Mach
chưa bao giờ trình bày một cách chi tiết sự tác động bí ẩn đó của toàn vũ trụ và sau này cũng chưa có ai làm được.
Cũng giống như thí nghiệm EPR đã xác lập điều đó đối với thế giới nội nguyên
tử, thí nghiệm con lắc Foucault buộc chúng ta phải chấp nhận rằng trong thế
giới vĩ mô có tồn tại một mối tương tác có bản chất hoàn toàn khác với những
tương tác mà vật lí hiện nay đã mô tả; tương tác này không làm xuất hiện lực và
cũng như không có sự trao đổi năng lượng, nhưng nó gắn kết toàn bộ vũ trụ với
nhau. Mỗi bộ phận đều mang trong nó tính
tổng thể và mỗi một bộ phận đều phụ thuộc vào những bộ phận còn lại.
(…) Sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng = trách
nhiệm toàn vũ trụ. Một phương trình thật cân bằng.
(…) William Blake đã diễn tả một cách hoàn hảo tính
tổng thể của vũ trụ bằng
các câu thơ sau:
“Trong hạt cát ta thấy cả vũ trụ
Trong đóa hoa dại ta thấy cả thiên đường
Nắm cái vô hạn trong lòng bàn tay
Và sự vĩnh hằng trong khoảnh khắc”.
(Trịnh
Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn. “Cái vô hạn trong lòng bàn tay”; đồng tác giả:
Mathieu Ricard; Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).
* Nền
vật lí này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những liên quan vật
chất và tâm linh chằng
chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái toàn thể. (Fritjof
Capra-nhà vật lí học. “Đạo của vật lí”; Nguyễn Tường Bách dịch).
* Đức
Đạt Lai Lạt Ma cho rằng: “Nếu người ta xem xét Thượng
Đế không phải
trên phương diện thần thánh cá nhân, mà là với tư cách là nền tảng của bản thể,
thì các phẩm chất như lòng vị tha có thể được gắn với nền
tảng thiêng liêng này của bản thể. Nếu người ta phải hiểu
Thượng Đế theo cách này thì sẽ có thể xác lập được những mối quan hệ gần gũi
giữa một số yếu tố của tư duy và sự thực hành Phật giáo”. (Mathieu Ricard-nhà sinh học, tu sĩ
Phật giáo. Sách đã dẫn-đồng tác giả: Trịnh Xuân Thuận).
* Tất
cả các tôn giáo đều gọi tên Thượng Đế theo ngôn ngữ của mình. (Simone
Weil-nhà triết học, nhà thần bí học Kitô giáo).
* Các
nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung vào việc tìm hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái của
chúng ta thực sự ảnh hưởng đến lực từ trường bên trong và
xung quanh chúng ta. (Karen
Nesbitt Shanor-tiến sĩ sinh học.”Trí tuệ nổi trội”; Vũ Thị Hồng Việt dịch).
* Masuru Emoto và các cộng sự đã
phát hiện ảnh hưởng của năng lượng tâm ý đối với cấu trúc và chất lượng
nước dùng làm thí nghiệm. (Báo Giáo Dục & Thời Đại Chủ Nhật
số 47 năm 2006).
* (…) Ở đây chúng ta có thêm một chứng minh
là tất cả chúng ta được kết nối với nhau
trong cùng một trường ý thức. Các đặc tính của trường này vận
hành lúc này và ở đây:
Trường hoạt động như một tổng thể.
Nó liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.
Nó nhớ mọi sự kiện.
Nó tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Nó sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.
Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng tiến hóa.
Nó là ý thức.
(…) Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện
tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi
ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe
hở là điểm khống
chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi
vũ trụ liên kết mọi sự kiện.
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy
thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. Trước
hết chúng ta là tâm trí và tinh thần, và điều đó đặt ngôi nhà
của chúng ta ra sau các vì sao. (Deepak Chopra-tiến sĩ y học, nhà
nghiên cứu tâm linh. “Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh”; Trần Quang
Hưng dịch).
* Nếu giác ngộ đã làm cho toàn thể vũ trụ
rung chuyển sáu cách khác nhau như kinh chép, thì vô minh khi chưa bị hàng phục ắt
vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì bản chất và hiệu lực, thần
lực ấy diễn ngược lại hẳn với giác ngộ. (Daisetz Teitaro Suzuki-thiền sư học
giả. “Thiền luận I”; Trúc Thiên dịch).
* (…)
Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng thay con người độc ác, ích
kỉ và hám danh bằng một người khác với hi vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị
thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì
vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục và thiên đường có cơ sở.
(…) Thầy Đa-ram nói: Năng lượng linh hồn là năng lượng ở ngoài electron và
ngoài proton. Nhưng tâm năng mạnh mẽ vô cùng, nó có khả năng tác động lên lực
hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực
và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm
năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác
động lên thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và chiến
tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi thiên thạch….
(…) Chúng ta cần nhớ rằng, lòng thiện và tri thức sẽ thúc đẩy quá trình hiện
thực hoá dự báo tích cực về sự phát triển của loài người; còn cái ác và thói
hám quyền có thể dẫn đến thảm hoạ toàn cầu trong tương lai, kể cả ngày tận thế,
hoặc tạo điều kiện phát triển yếu tố thụt lùi, dẫn đến hoá hoang.
(…) Tôi tin rằng, trong tương lai, những lực lượng tích cực trên Trái đất sẽ áp đảo lực lượng tiêu
cực và sẽ không có thảm hoạ toàn cầu. (Erơnơ Munđasep-giáo sư tiến sĩ y
học, nhà bác học lớn quốc tế. “Chúng ta thoát thai từ đâu”; Hoàng Giang dịch).
* Muốn chuyển hoá thế giới, chuyển hoá sự
khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự phân chia giai cấp và tất
cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải chuyển hoá chính bản thân mình. Cuộc
cách mạng (tâm lí) phải bắt đầu được nhóm dậy trong
chính tâm tư mình, chứ không phải lệ thuộc vào bất cứ tín
ngưỡng hay ý thức hệ nào (…). (Jiddu Krishnamurti-danh nhân giác
ngộ. “Tự do đầu tiên và cuối cùng”; Phạm Công Thiện dịch).
* Mười phương thế giới thu vào một
điểm hiện tiền; quá khứ, hiện tại, vị lai tụ trong một niệm đương thời.
Dù ở giữa hàng chư thiên cũng không có niềm vui nào so được với đây; ở loài
người lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời sống tâm linh có thể thâu
đạt được chỉ trong vài bữa,
nếu hành giả dốc lòng tu tập. (Bạch Ẩn-thiền sư. Trích trong Thiền
Luận II; Daisetz Teitaro Suzuki; Tuệ Sỹ dịch).
* Tột trước cùng sau trở về niệm hiện tiền. (Kinh
Lăng Già Tâm Ấn; Thích Thanh Từ dịch).
* Tri huyễn tức li, li huyễn tức
giác. (Kinh Viên Giác). (Tri huyễn là nghe và thấy rõ mọi động niệm của tâm ý.
Nghe và thấy rõ vọng tưởng thì vọng tưởng tự tịnh, tánh Viên Giác hiện tiền.-
“Thiền tịnh tự tri”; Tuệ Thiền; 4phuong.net).
* “Tự
tri-tỉnh
thức-vô
ngã” là đạo lí
của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng
tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của
tất cả.
(…) Viên mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó, nhưng chỉ có hướng đến đó mới
xây dựng được mẫu số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống. Chỉ có hướng
đến đó mới tạo nên tiếng nói chung cho hoà bình, công bằng, nhân ái - thật sự
biết tôn trọng nhau giữa người với người.
(…) “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(…) Không tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm linh của người khác thì chưa có
tâm thái hòa bình và tỉnh thức. (Đường
Về Minh Triết; Tuệ Thiền Lê Bá Bôn).