Đọc “Khi Anh Chết” Thơ Lê Mai
- Châu Thạch
Khi Anh Chết
(Nỗi buồn chiến tranh viết bằng thơ)
Khi anh chết, anh vẫn còn thấy đói
Anh nhìn tôi như hỏi: có còn gì?
Mắt lệ nhòa, tôi còn biết nói chi
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Khi anh chết anh vẫn còn muốn nói
Tâm sự gì với vòi vọi trời cao?
Gió thương anh nên cố sức phều phào
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Khi anh chết anh vẫn còn muốn nhắn
Nhắn nhủ gì trong nước mắt rưng rưng?
Mắt đột nhiên biến sắc khoảng trời rừng
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Anh chết vội tôi chôn anh cũng vội
Không đào sâu chôn chặt mộ cho anh
Biết làm sao anh hỡi chiến tranh
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Lê Mai
Tôi là một người lính miền Nam, Lê Mai là
một chiến binh miền Bắc, không phải vì thế mà không thể đồng cảm
nhau, nhất là bài thơ của Lê Mai chỉ nói sự nằm xuống của một con
người. Đọc toàn bộ bài thơ, lúc đầu ta tưởng chẳng có gì đáng phải
khen, người chiến binh nào khi chết ở mặt trận thì cũng thế. Thơ anh
không tiếng rên, chỉ có một chút nước mắt, khô cằn như sỏi đá. Tuy
thế, chính sự khô cằn của bài thơ làm cho tôi thấy buốt giá, thấy
rợn người và bắt tôi phải viết, viết ngay và viết khen.
Hãy vào khổ thơ đầu tiên:
Khi anh chết, anh vẫn còn thấy đói
Anh nhìn tôi như hỏi: có còn gì?
Mắt lệ nhòa, tôi còn biết nói chi
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Đọc thoáng qua nhiều người sẽ cho rằng nhà
thơ nói đến “bụng đói” của người chiến sĩ trong phút lâm chung. Không
đâu, chết mà đói là sự bình thường cúa tất cả những người trên
chiến trận, không đáng gì để đưa vào thơ. Nhà thơ muốn nói đến cái
đói khác, cái đói của người chiến binh nhập ngũ ở thời trai trẻ,
kể từ đó cuộc đời họ hứng chịu cái đói, nhưng cái đói vật chất
không đáng kể mà cái đói tinh thần mới quan trọng: Đói tháng ngày
cận kề cha mẹ, đói tình yêu thắm thiết của em, đói niềm vui sự sống
... , nói chung đói tất cả những gì mà tuổi thanh niên cần nhận
lảnh. Chữ đói trong thơ cho ta liên nghĩ đến tất cả những vật chất
và tinh thần mà người chiến binh chịu thiếu hụt vì phải đầu quân.
Tất cả từ ngữ trong khổ thơ nầy làm vệ tinh cho chữ “ đói” và chính
cái tứ “ đói” của thơ ẩn chứa một nỗi đau bi thiết đã làm cho vế thơ
đầu của bài thơ xao động con tim người đọc. Cái hay của thơ là ở đó,
ở chổ nhờ một chữ bình dị mà chủ đạo, qua chữ ấy cả khổ thơ gây
cảm kích và đi vào lòng người..
Bước qua khổ thơ thứ hai cũng vậy, chữ
“nói’’ không chỉ là mang ý nghĩa những lời cuối cùng của người
chiến sĩ sắp lâm chung. Chữ “nói” trong khổ thơ nầy cũng hàm chứa
nỗi oan khuất của người trai trẻ phải tắt tiếng giữa cuộc đời:
Khi anh chết anh vẫn còn muốn nói
Tâm sự gì với vòi vọi trời cao?
Gió thương anh nên cố sức phều phào
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Ở đây tác giả muốn bày tỏ sự khao khát
giao lưu truyền thông giữa người sắp chết và cuộc đời. Nếu không chết
người lính sẽ còn bao nhiêu năm được nói với cha, với mẹ, với bạn
bè, với em và với cả tha nhân. Chữ “nói” trong khổ thơ nầy cũng như
chữ “no” ở khổ thơ trên mang toàn bộ ý nghĩa của đời người. Người
chiến binh trước khi trút hơi thở cuối cùng vẫn còn “thấy đói” và
“muốn nói”. Cái sự thấy và muốn ấy, không chỉ là sự thấy đói và
muốn nói của thế xác mà ý nghĩa của thơ nặng về phần tinh thần,
bày tỏ sức sống, ước vọng, nhu cầu của một sinh linh bị cắt đứt
trong giây phút phủ phàng. Trong thực tế, trước phút lâm chung vì sự
đau đớn người thương binh có thể không thấy đói, không muốn nói gì
nhưng sự “thấy đói” và “muốn nói’” trong thơ là nỗi thiếu thốn tinh
thần dằn vặt theo năm tháng của đời làm lính, là niềm trắc ẩn chất
chứa trong lòng có khi nó hiển lộ, có khi nó nằm trong tiềm thức.
Tác giả bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi niềm đó cho duy một chiến hửu
chết trên tay ông mà ông bộc lộ nỗi niềm đó trong chính cõi lòng ông,
là cảm nhận của ông, là biểu lộ hộ tiếng than ai oán, bày tỏ toàn
bộ sự bi ai cho tất cả chiến binh đã chết trên hai chiến tuyến đối
nghịch nhau, tố cáo sự bất công cắt đứt đời người vô lý của chiến
tranh đã làm cho các tử sĩ chưa thực hiện được dự phóng mà mình ao
ước thực hiện. Cái “thấy đói” và cái “muốn nói”ở phút cuối cuộc
đời là cái thấy và muốn hoàn thành sự nghiệp còn bỏ lại dở dang
giữa trần thế
Qua khổ thứ ba của bài thơ tác giả đề cập
đến ý muốn nhắn nhủ của người tử sĩ. Người đọc thơ nên chú ý đến
câu thơ “Nhắn nhủ gì trong nước mắt rưng rưng?”:
Khi anh chết anh vẫn còn muốn nhắn
Nhắn nhủ gì trong nước mắt rưng rưng?
Mắt đột nhiên biến sắc khoảng trời rừng
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Ai cũng có thể đoán được người tử sĩ sẽ
nhắn nhủ nhiều điều cho cha mẹ, cho vợ con, cho những người thân yêu
còn ở hậu phương. Thế nhưng tác giả lại viết “nhắn nhủ gì” và đánh
một dấu hỏi (?) to tướng, làm như không biết sự thường tình ấy đã
được viết ra trong vô vàn tác phẩm. Vâng, tác giả biết đấy, nhưng ông
muốn dùng một ẩn ý trong thơ để nói đến những lời nhắn nhủ cao hơn
về những điều thiêng liêng hơn vợ con, cha mẹ, như là non sông đất nước
chẳng hạn. Những lời nhắn nhủ ấy, có thể trăm ngàn tử sĩ không nói
thành lời nhưng nó chất chứa đầy trong dòng nước mắt của họ. Những
điều nhắn nhủ đó là những điều ẩn chứa trong câu thơ “tâm sự gì với
vòi vọi trời cao” ở khổ thơ trên. Những lời nhắn nhủ “ tâm sự gì
với vòi vọi trời cao” đó chính là ước muốn của họ gởi lại cho
người còn sống thực hiện cho tổ quốc, cho non sông, cho lý tưởng mà
họ từng theo đuổi chưa thành. Cái ước muốn hoặc là bồng bột, hoặc
là tiềm ẩn trong lòng suốt cuộc đời binh nghiệp của người chiến sĩ,
khi chết họ nói ra trong ánh mắt gởi lại cho bạn mình, trong ánh mắt
chan chứa yêu thương nhìn cõi đời lần cuối.
Khổ thơ chót đề cập đến sự chôn vội vã:
Anh chết vội tôi chôn anh cũng vội
Không đào sâu chôn chặt mộ cho anh
Biết làm sao anh hỡi chiến tranh
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Chôn vội vã là sự thật của chiến trường.
Chôn vội vã là một ý chỉ sự khắc nghiệt của chiến trường, cũng là
một ý chỉ sư khẩn trương của người còn sống. Chôn vội vã rồi đổ
tội cho chiến tranh, “Biết làm sao anh hỡi chiến tranh” là tiếng ta
thán chỉ trích chiến tranh. Chiến tranh đã dồn con người vào thế bỏ
bạn, làm cho con người phải tự biến mình thành vô cảm khi chôn bạn
mình một cách qua loa tạm bợ.
Cả bốn khổ thơ đều có câu cuối “Bốn phía
rộn tiếng đề pa của pháo!” khiến bài thơ như dồn dập tiếng nổ lớn,
làm cho sự khẩn trương, cấp bách như đang xảy ra và chiến trường như
đang ở gần bên người đọc. Đó là nghệ thuật dụng chữ làm cho bài thơ
sôi động nhưng mặc khác, về dụng ý: tiếng pháo dồn dập đổ xuống
trận địa chận sự “thấy đói”, chận sự “muốn nói”, chận sự “muốn
nhắn” và làm cho “chôn vội” là hình ảnh của tất cả sự phủ phàng
đổ ập xuống người chiến binh tử sĩ. Tiếng pháo dập xuống thể hiện
cho sự chèn ép, sự bất công, sự đàn áp thô bạo cắt ngang ước muôn,
tư duy, và cướp mất quyền làm người của
người tử sĩ. Tiếng pháo chính là thần chết mang đầy dẫy cái
xấu của chiến tranh, làm những điều phi lý,đê hèn, đè bẹp ước muốn,
bóp chết lời nói, cắt ngang sự sống của con người.
Bài thơ “Khi Anh Chết” của Lê Mai không chỉ
diễn tả “nỗi buồn chiến tranh viết bằng thơ” mà con là tờ cáo trạng
chiến tranh viết bằng thơ. Tờ cáo trạng viết những lời khô khan, đanh
thép nhưng chất chứa tiềm ẩn nỗi đau của vết thương không hề lành
được. Không hề lành được vì người chiến binh đã chết mất rồi trong
tiếng đề pa bốn phía rợn người của pháo./.
Châu
Thạch