Phục Sinh - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
(Bài thơ & sưu tầm cho thiền)
Thiên
niên kỉ mới
Nhú
lên dưới gốc mai già
Tôi
lãng đãng
Nhâm
nhi ngày-tận-thế-của-chính-mình
Sự
Sống không có kết thúc
Tỉnh
thức chết cái xám xịt tâm hồn
Phục
sinh nhịp đời vô nhiễm
(Những
hôm qua chưa sống thực
Chuỗi
mộng mị quá khứ-tương lai ám bóng mắt nhìn)
Từng
khoảnh khắc cái-chết-thiên-tài
Nhú
lên nõn nà thanh xuân.
(Đường về minh triết)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
------------
NHÀ KHOA HỌC KỂ LẠI CÂU CHUYỆN TÂM LINH
(Đọc trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; Deepak Chopra;
tiến sĩ y học; được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu
tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010).
(Ông nói: Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng
trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ
trụ liên kết mọi sự kiện).
------
Câu chuyện, đã trở thành nổi tiếng trong tài liệu cận tử, thuộc về một
nghệ sĩ tên là Mellen-Thomas Benedict chết vì u não năm 1982. Việc ông chết một
tiếng rưỡi rồi hồi tỉnh thật không thể tin được đối với các tiêu chuẩn phương
Tây. Trong Phật giáo Tây Tạng ông có thể được coi là một delog, và các kinh
nghiệm của Benedict chi tiết như mọi câu chuyện của các delog khác. Tôi sẽ kể chi tiết câu chuyện
này vì cuộc du hành của Benedict thực sự đã cung cấp cả một bách khoa toàn thư
về cõi sau sự sống.
Ông phát hiện ra mình ở bên ngoài thể xác, nhận biết rằng thi thể vẫn
nằm trên giường. Lĩnh hội mở rộng-ông có thể nhìn bên trên, xung quanh và bên
dưới ngôi nhà của mình-và ông cảm thấy mình bị bao bọc trong bóng tối, nhưng
chẳng bao lâu một ánh sáng chói lòa trở nên rõ rệt. Ông di chuyển về hướng ánh
sáng, biết rằng nếu rơi vào đó ông sẽ chết.
Tại điểm này, Benedict đã ra một quyết định kinh ngạc. Ông đề nghị kinh
nghiệm dừng lại và nó dừng lại. Việc ông tìm cách khống chế những gì xảy ra sau
cái chết có thể không làm một rishi ngạc nhiên, nhưng nó gần như duy nhất trong
tài liệu cận tử. Benedict ra lệnh dừng lại như vậy để ông có thể nói chuyện với
ánh sáng. Trong khi ông hành động như vậy, ánh sáng thay đổi hình dạng liên
tục, khi thì tạo nên hình Chúa Trời hay Đức Phật, khi thì chuyển thành các hình
thù phức tạp như đàn tràng mandala hoặc các hình ảnh nguyên bản và các kí hiệu
như ông muốn. Ánh sáng nói với ông (hay chính xác hơn là truyền thông tin vào
tâm trí ông) rằng người chết được cho “một vòng liên hệ ngược” của các hình ảnh
tương xứng với hệ thống tín ngưỡng riêng họ: tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn thấy
các hình ảnh Thiên Chúa giáo, Phật tử nhìn thấy các hình ảnh Phật giáo… Là một
cái vòng, người chết có thể đi vào bên trong kinh nghiệm và tạo hình nó, như
Benedict đã làm. (Ánh sáng giải thích rằng ông là một ca hiếm; đa số người ta
đi tiếp mà không hỏi gì cả).
Việc Benedict nhìn thấy nhiều hình ảnh hoán đổi nhau có thể liên quan
tới niềm say mê các tôn giáo và truyền thống tâm linh của thế giới sau khi ông
bị chẩn đoán mắc ung thư. Sau đó Benedict nhận ra cái ông nhìn thấy thực ra là
ma trận Bản Ngã Tối Cao, mà ông mô
tả là “mandala của linh hồn con người”; chính
là hình mẫu vũ trụ của ý thức. Ông nhận ra mỗi người có Bản Ngã Tối Cao là siêu linh mà cũng là kinh mạch trở về
nguồn. Những thuật ngữ này, gần như không thay đổi, nghe giống Vedanta
thuần túy. Điều này gây nên sự ngờ vực, bởi vì Benedict có thể bị các kinh sách
Ấn Độ ông đọc cách đó không lâu ảnh hưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, về phía ông, kinh
nghiệm đã trải qua là hoàn toàn bột phát và hiện thực.
Chăm chú nhìn ma trận của các linh hồn, Benedict nhận ra là tất cả chúng
liên kết với nhau; nhân loại hình thành một tồn tại; mỗi chúng ta là một khía cạnh của tổng thể này. Ông bị lôi kéo vào
cái ma trận mà ông mô tả là đẹp không tả xiết. Nó toát ra một tình thương trị liệu và bổ dưỡng xâm chiếm ông. Ánh
sáng truyền đạt tới ông rằng ma trận linh hồn hình thành một mức năng lượng vi
diệu bao bọc quanh trái đất và ràng buộc mọi người lại với nhau. Benedict đã
mất hàng chục năm dồn hết tâm trí vào lĩnh vực giải trừ vũ khí hạt nhân và sinh
thái học, nhưng vấn đề khó khăn khiến ông hết sức bi quan. Ông nói giờ đây ông
được đối diện với vẻ đẹp thuần khiết của mỗi linh hồn con người và thật bàng
hoàng.
Ông đặc biệt kinh ngạc khi không có linh hồn nào chứa đựng cái ác, và
ánh sáng cho ông biết linh hồn không thể nào độc ác di truyền. Sự kiếm tìm tình yêu nằm trong mọi hành vi
của con người, và khi người ta bị lôi kéo vào những hành vi tồi tệ, nguyên nhân
gốc rễ là thiếu tình thương. Khi ông hỏi như thế có phải là nhân loại có
thể được cứu rỗi, một hồi kèn vang lên trong ánh sáng xoáy ốc, và Benedict được
nhắn nhủ rằng chớ bao giờ quên câu trả lời: loài người đã được cứu rỗi, dù cho
tình hình hiện tại có vẻ kinh khủng đến thế nào đi chăng nữa.
Benedict trải nghiệm sự khoan khoái tột độ khi ông bị hút sâu hơn vào
ánh sáng, đạt tới vùng khác vi diệu hơn và bao la hơn nhiều. Ông nhìn thấy một
“dòng ánh sáng khổng lồ, thoáng đạt và chan chứa sâu trong trái tim sự sống”.
Khi ông hỏi cái gì đấy, ánh sáng trả lời rằng đó là dòng sông sự sống và ông
cần uống nước từ đó để trái tim mình thỏa mãn.
Tràn ngập nỗi tò mò vô hạn, bây giờ ông xin ánh sáng hé mở cho ông cả vũ
trụ “phía sau mọi ảo ảnh nhân loại”. Ông được đề nghị cưỡi lên dòng sự sống, và
khi thực hiện, ông vừa vượt qua một đường ngầm và nghe thấy “những tiếng động
nhẹ nhàng”. Tốc độ của ông vượt quá tốc độ ánh sáng khi ông rời khỏi hệ mặt
trời, xuyên qua tâm giải Ngân hà, và nhận
biết vô số thế giới và nhiều hình thái sự sống, tất cả trong một sự hối hả
chóng mặt. Ở đây Benedict có một phát hiện quan trọng, rằng điều tưởng như là
du hành xuyên qua vũ trụ thực ra chỉ là mở
rộng ý thức của chính mình. Sự hiện diện của các ngân hà và tinh vân lướt
qua chính là ý thức của ông trôi qua hết giới hạn không-thời gian này đến giới
hạn khác.
Benedict mô tả toàn bộ các dải
ngân hà mất hút vào một điểm, về các hình thái sự sống bộc lộ sự tồn tại
của chúng, về một ánh sáng thứ hai chứa đựng mọi rung động trong vũ trụ. Theo
các rishi Veda, đó là các rung động
nguyên thủy mà từ đó vạn vật xuất hiện, có nghĩa là Benedict đã là nhân
chứng của chính hoạt động ý thức. Benedict đã tìm được ngôn ngữ riêng của mình
cho giai đoạn này, khi nói rằng ông đối mặt với hình ảnh ba chiều của vũ trụ.
Khi đi vào vùng ánh sáng thứ hai, ông thể nghiệm sự chuyển biến sang im
lặng và tuyệt đối bất động. Có một điều xảy ra là ông có thể nhìn thấy vô tận.
Ông ở trong trống rỗng, hoặc là tiền sáng thế như cách ông gọi, và ý thức của ông vô hạn. Ông đã tiếp xúc
với cái tuyệt đối không phải là một kinh nghiệm tôn giáo mà là một trong những
nhận thức không ràng buộc. Ông nhận thấy vạn vật tự phát sinh không có bắt đầu
hay kết thúc. Thay vì một Big Bang, sự kiện duy nhất đã tạo ra vũ trụ, Benedict
nhận thấy hàng triệu Big Bang liên tục sản sinh ra những vũ trụ mới. Bởi vì ông
ở ngoài thời gian, điều này xảy ra đồng thời ở khắp mọi hướng.
Sau khi đạt đến sự diện hiện vũ trụ này, cuộc du hành của Benedict tự
quay về, từng bước một, và ông thức dậy trên giường mình tại nhà với nhận thức
không lay chuyển, giờ đây rất giống trong tài liệu kinh nghiệm cận tử, rằng cái chết là ảo giác.
Ông Benedict đã đồ rằng sẽ trở về cõi trần là một đứa bé, với một kiếp
sống mới. Thế nhưng khi mở mắt ra, ông vẫn có cơ thể cũ, cái cơ thể đã chết hơn
một tiếng đồng hồ theo lời kể của nhân viên nhà tế bần có mặt lúc đó (ở đó
không có máy đo đạc hay bác sĩ). Nhân viên nhà tế bần, người khóc bên xác
Benedict, cam đoan với ông rằng ông đã có mọi dấu hiệu của cái chết, kể cả cơ
thể lạnh cứng dần. Một ống nghe khoách đại không phát hiện ra nhịp tim. (Dưới
góc độ y học, xác nhận này tự thân quá kì quặc khiến một người hoài nghi phải
trừ hao mọi phần khác trong câu chuyện của Benedict).
Mặc dầu lúc đầu bị mất phương hướng ghê gớm, ông Benedict cảm thấy dễ
chịu hơn là trong cuộc sống trước kia. Phải mất ba tháng ông mới dám liều đi
chụp não lại, dễ hiểu là ông lo ngại về khối u-nhưng lại nhận được những tin
tuyệt vời. Mọi dấu vết của khối u ác tính đã biến mất, vị bác sĩ chuyên khoa
ung thư giải thích đó là sự thuyên giảm tự phát, một trường hợp u ác tính tự
tiêu biến rất hãn hữu. Đây là sự lãng tránh vấn đề khỏi bệnh thông qua cái chết
chưa từng bắt gặp trong sách y học, và hiện tượng khỏi bệnh ung thư ác tính
cấp, như tôi được biết, là hiếm xảy ra nhất.