Khi Lòng An
Định - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
(Bài thơ & sưu tầm cho thiền)
Khi lòng an định
Xuân về xanh non
Tâm thiền tỉnh thức
Buông nhịp sống mòn
Nhẹ nhàng quán chiếu
Ngũ uẩn thanh bình
Từ bi thấp thoáng
Quên điều nhục vinh
Chung trà tịch lặng
Thay chén rượu nồng
Đất trời đối ẩm
Chan hoà vô ngôn
Phút giây “bất nhị”
Tri ân cuộc đời
Công trình tuệ quán
Muôn thuở chia vui…
Khi lòng an định
Xuân về xanh non
Tâm thiền tỉnh thức
Buông nhịp sống mòn.
(Ngũ uẩn: thể xác và
tinh thần;
“Bất nhị”: siêu vượt
nhị nguyên).
(Đường về minh triết)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
------------
Nói Về Hoạt Động Trí Não
(Sưu tầm cho thiền)
* Trí óc vận hành trong cái manh
mún, từng phần, chia chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó không bao giờ là cái toàn
thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu biết nhưng vô hiệu. Vì chính bản chất
của nó, nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức cũng thế; tư tưởng,
phản ứng của kí ức chỉ có thể vận hành trong cái đã biết, hoặc lí giải từ kiến
thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn hóa. Nó không thể vượt lên trên chính
nó. Nó chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành nhà khoa học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật
gia, kĩ thuật gia, nông gia… Nó hoạt động bằng cách phóng chiếu lên giai cấp xã
hội, đặc quyền, quyền hành, uy thế của nó. Sự
vận hành não bộ và giai cấp xã hội liên kết với nhau chặt chẽ, vì trí óc là một
cơ quan tự bảo vệ. Chính từ nhu cầu này mà những yếu tố đối nghịch và chống
trái của xã hội phát sinh. Nhà chuyên môn thì không có khả năng nhìn được toàn
diện.
(…) Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại, vì củng cố tính vị
ngã; vì mang tính chia chẻ vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu chỉ có
giá trị trong sự nhìn thấu toàn diện đời sống, sự nhìn thấu này nằm trong lĩnh vực của tâm chứ không phải của trí óc.
Năng khiếu với sự vận hành của nó nằm trong giới hạn của trí óc, do đó năng
khiếu trở nên nhẫn tâm, lãnh đạm đối với tiến trình toàn thể của đời sống. Năng
khiếu gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự thành tựu của nó trở thành ưu tiên
hàng đầu, nó đưa đến thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó chỉ có giá trị nếu nhận thức được toàn thể sự sống. (…).
(…) Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với sự chia chẻ manh
mún, với những hoạt động cô lập lại nó trong địa hạt giới hạn của thời gian.
Trí óc không có khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống; dù có được giáo hóa đến
đâu, trí óc cũng chỉ là một phần chứ không phải là toàn thể. Chỉ có tâm mới thấy được cái toàn thể, và phạm vi của tâm bao trùm
luôn trí óc; trí óc dù có làm gì đi nữa cũng không thể chứa đựng được tâm.
Để nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái buông xả. Buông xả
hoặc phủ nhận không phải là đối nghịch của khẳng định; những cái đối nghịch đều
liên kết với nhau. Sự phủ nhận không có cái đối nghịch. Để có được cái nhìn
toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt đối; nó không được can
thiệp vào bằng cách lượng giá, biện bạch, kết án và tự vệ. Trí óc phải im lặng
mà không bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho trí óc chết cứng, chỉ có khả năng mô
phỏng và tùy hợp. Chính trong trạng thái
phủ nhận mà trí óc tĩnh lặng không lựa chọn. Chỉ chính lúc đó cái nhìn toàn thể
mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh thức, và trạng thái này không gồm có
người quan sát cũng như vật bị quan sát, mà chỉ có ánh sáng, chỉ có sáng suốt.
Sự đối kháng và xung đột giữa người tư duy và tư tưởng kết thúc. (Jiddu Krishnamurti-danh nhân giác ngộ. Bút
hoa (The Krishnamurti’s notebook); Ẩn Hạc dịch).
---
* Cần phải thừa nhận rằng trong
các khoa học tự nhiên cũng có một phần lớn mang tính chủ quan. Với vai trò là
sinh vật biết tư duy, nhà khoa học không
thể quan sát Tự nhiên một cách hoàn toàn khách quan. Einstein từng nói:
“Các khái niệm vật lí là những sáng tạo tự do của trí tuệ con người, ngay cả
khi chúng có vẻ như được quyết định chỉ bởi thế giới bên ngoài. Những cố gắng
của chúng ta nhằm nắm bắt hiện thực cũng tựa như những nỗ lực của người tìm
cách hiểu cơ chế hoạt động của một chiếc đồng hồ kín mít. Anh ta chỉ nhìn thấy
mặt đồng hồ và các kim chuyển động, thậm chí còn nghe cả tiếng tích tắc, nhưng
anh ta không có cách nào để tháo vỏ đồng hồ ra. Nếu đủ thông minh, anh ta sẽ
tạo ra hình ảnh của một cơ cấu đã gây ra tất cả những gì anh ta quan sát được,
nhưng anh ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng hình ảnh mà anh ta tạo ra là
duy nhất có thể giải thích được những quan sát của mình. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh được mô hình của mình với cấu
trúc thực, và thậm chí cũng không thể hình dung ra được liệu sự so sánh này có
một ý nghĩa nào không”. (Trịnh Xuân
Thuận-nhà vật lí thiên văn.Cái vô hạn trong lòng bàn tay; (đồng tác giả:
Mathieu Ricard); Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).
---
* Thực ra, ngành sinh học thần
kinh đã chứng tỏ được rằng “hiện thực” chỉ xuất hiện đồng nhất đối với các sinh
vật cùng loài có cùng một hệ thần kinh. Các loài khác nhau thì cảm nhận thế
giới theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu đối với loài cá, chim
và côn trùng đã chứng tỏ rằng màu sắc và hình dạng của các vật được các loài
vật này cảm nhận theo những cách hoàn toàn khác với con người. Hiện thực chắc chắn bị thay đổi tùy theo hệ
thống thần kinh cảm nhận nó. (Trịnh
Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---
* Nếu người ta phân tích một
trong những cách tri giác nào đó, như cách tri giác của con người chẳng hạn,
thì người ta sẽ nghiệm thấy đơn giản rằng, trong một số điều kiện, người ta
quan sát và đo lường một số hiện tượng theo cách có thể tái tạo được. Nhưng làm
như vậy, hiện thực của “vật” không vượt qua thân phận ban đầu của nó, tức là
cái “nhãn mác tinh thần”. Quá trình thực
nghiệm này chưa bao giờ chứng tỏ rằng cái mà người ta quan sát là tồn tại tự
thân và có các đặc tính nội tại. Chúng ta có thể nhìn thấy một nghìn lần
hai Mặt trăng bằng cách áp một nghìn lần hai ngón tay vào nhãn cầu của chúng
ta, và chắc chắn là việc nhìn thấy hai Mặt trăng này không hề có nghĩa là có
hai Mặt trăng thật! (Mathieu Ricard-nhà
sinh học; sách đã dẫn).
---
* Định lí về tính không đầy đủ
của Godel thực tế ngụ ý rằng có tồn tại những giới hạn đối với sự suy luận
logic, chí ít là trong toán học. Định lí này thường được coi là một phát minh
logic quan trọng nhất của thế kỉ XX. (…) Năm 1931, ông đưa ra một định lí có lẽ
là tuyệt vời và bí hiểm nhất trong số các định lí toán học. Ông đã chứng tỏ
được rằng một hệ thống số học nhất quán và phi mâu thuẫn chắc chắn sẽ chứa các
mệnh đề “không giải quyết được”, tức là
các phát biểu toán học mà người ta không thể bằng logic nói được chúng là đúng
hay sai. Mặt khác, không thể chứng minh được rằng một hệ thống là nhất quán
và phi mâu thuẫn chỉ dựa trên cơ sở của các tiền đề (các mệnh đề đầu tiên được
chấp nhận không cần chứng minh) có trong hệ thống này. Ngược lại, cần phải “đi
ra ngoài hệ thống” và đưa ra các tiền đề phụ bên ngoài hệ thống. Theo nghĩa này, hệ thống tự bản thân nó chỉ
có thể là không đầy đủ. Chính vì thế, định lí của Godel cũng thường được
gọi là “định lí về tính không đầy đủ”.
Định lí này quả thật chẳng khác gì cú sét trong thế giới toán học. Godel đã chứng minh rằng logic có những
giới hạn và rằng giấc mơ của Hilbert (biết chứng minh một cách chặt chẽ sự
nhất quán của toàn bộ toán học) là một ảo tưởng. Nó cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực khác của tư duy như
triết học hay tin học. (Trịnh Xuân
Thuận; sách đã dẫn).
---
* Từ khi khoa học hiện đại ra đời
vào thế kỉ XVI, vốn tri thức của chúng ta đã tăng lên theo hàm mũ, nhưng nó không làm cho chúng ta tỏ nên minh
triết hơn. Tình hình càng trở nên cấp bách khi con người hiện nay đang có
khả năng sẽ làm đảo lộn sự cân bằng sinh thái của toàn bộ hành tinh, thậm chí còn có thể tự hủy diệt mình,
khi các vấn đề đạo đức ngày càng trở nên gay gắt, và khoảng cách giàu nghèo vẫn
không ngừng nới rộng thêm… (Trịnh Xuân
Thuận; sách đã dẫn).
---
* Nghiệp có thể chuyển thành
chiếc chìa khóa để tìm hiểu chính bộ não. Các
nhà thần kinh học lúng túng trước cái họ gọi là “hiệu ứng liên kết”, một lực
lượng huyền bí kết nối các vùng khác nhau trong não lại. (…).
(…) Chúng ta đều mang trong tâm trí mình một cơ sở dữ liệu thông tin
rộng lớn mà chúng ta coi là nền tảng. Cơ sở dữ liệu này nắm giữ mọi thứ quan
trọng mà chúng ta tin tưởng về thế giới. Đó là thế giới quan của chúng ta.
Chúng ta phụ thuộc vào nó để sống sót thậm chí một thời gian ngắn. Các niềm tin phát triển qua nhiều thế kỉ,
và do vậy một số nhà nghiên cứu coi niềm tin như bản thể dạng “gene ảo” trở
thành các đặc tính cố định của bộ não. (…).
(…) Thế giới quan cung cấp lối mòn cho hành vi, không may là nhiều khi
nguy hiểm. Các đặc tính như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự hiếu chiến tồn
tại như các phản xạ tự nhiên. (…). Đây chính là cái Bhagavad-Gita ngụ ý với tên
gọi là hiệu ứng trói buộc của nghiệp.
(…). (Deepar Chopra-tiến sĩ y học, giảng
dạy ở Đại học Boston .
Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh; Trần Quang Hưng dịch).
---
* Cho tới đây chúng ta chỉ mới
nói cái tác dụng bóp méo của dồn ép; còn một phương diện nữa mà ta phải đề cập
đến không đưa đến bóp méo, nhưng biến một kinh nghiệm thành phi thực bằng tác
động của não. (…).
Tiến trình tác động óc não này
được nối kết với tính chất mơ hồ của ngôn ngữ. Ngay khi tôi bày tỏ một cái gì
bằng một chữ, một sự vong thân xảy ra, và trọn cả cái kinh nghiệm đã bị cái chữ
ấy thay thế. Trọn cái kinh nghiệm chỉ thực sự hiện hữu vào cái giây phút nó
được biểu thị bằng ngôn ngữ. Cái tiến trình thông thường của tác động óc não
tỏa rộng và mãnh liệt trong văn hóa hiện đại hơn bất cứ lúc nào trước đây trong
lịch sử. Chính vì càng ngày người ta càng đề cao kiến thức trí năng (…). (Erich Fromm-nhà phân tâm học. Thiền và
phân tâm học (nhiều tác giả); Như Hạnh dịch).
---
* Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều
gì đó được truyền đạt từ người này sang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự
nêu trỏ suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng
đến ngọn đèn ngôn từ để đi vào trong cái
chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng. Nhưng quả
thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi sự. (Daisetz Teitaro Suzuki-thiền sư học giả.
Nghiên cứu Kinh Lăng Già; Thích Chơn Thiện & Trần Tuấn Mẫn dịch).
---
* Một vài năm trước đây, một thí nghiệm với các con mèo con
đã được các nhà khoa học tại Trường y khoa Harward thực hiện. Ngay từ khi sinh
ra, người ta đã nuôi một số mèo trong một khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang;
tất cả các tác nhân kích thích thị giác trong môi trường của chúng đều nằm
ngang. Một nhóm khác được nuôi trong một khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và
đó là tất cả những gì mà chúng có thể nhìn thấy. Khi những con mèo này lớn lên,
trở thành những con mèo già khôn ngoan; còn những con mèo chỉ tiếp xúc với
những vạch ngang thì chỉ nhìn thấy thế giới nằm ngang, ví dụ như chúng va đụng
vào những chân đồ đạc như thể những cái chân này không có ở đó. Những con mèo
được nuôi dưỡng trong thế giới thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự với thế giới
ngang. Lẽ đương nhiên những điều này không có gì liên quan đến hệ thống lòng
tin ở những con mèo này. Khi người ta nghiên cứu trí não của chúng, một nhóm
mèo sẽ không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới ngang, còn nhóm
kia cũng không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới thẳng đứng.
Sự trải nghiệm giác quan ban đầu của những chú mèo này và cách thức chúng hiểu
sự trải nghiệm đó theo nhận thức của chúng ngay từ những ngày đầu mới sinh khi
thị lực của chúng phát triển, đã thực sự hình thành sự phân tách hệ thần kinh
của chúng. Rốt cục, những chú mèo này chỉ nhận biết được những gì mà người ta
đã tạo ra cho chúng và chúng nhận biết được lập tức.
Một số nhà tâm lí học đã có thuật ngữ rất thú
vị về hiện tượng này - họ gọi nó là “sự cam kết nhận thức sớm”. Sớm là vì chúng
ta tiến hành việc này ngay từ giai đoạn đầu cuộc sống của chúng. Nhận thức là vì nó ảnh hưởng đến sự phân
tách hệ thần kinh mà chúng ta nhận ra hay nhận biết về thế giới. Và sự cam
kết là vì nó cam kết với chúng ta một thực tế nhất định. Một số nhà khoa học có
thể nói với bạn rằng ngay lúc này hệ thần kinh bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận
dưới một phần tỉ của các tác nhân kích thích hiện hữu. Các tác nhân kích thích
mà hệ thần kinh của bạn tiếp nhận được là những tác nhân tăng cường sự vận
động, ý tưởng, cách hiểu của bạn về những gì mà bạn nghĩ là tồn tại ngoài kia. Nếu bạn đã có cam kết với thực tế thì những
thứ mà tồn tại bên ngoài khung cam kết sẽ bị hệ thần kinh của bạn loại ra, hệ
thần kinh mà bạn sử dụng để tạo ra sự quan sát. Tuỳ thuộc vào loại cơ quan
thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc vào loại hình các sự quan sát mà bạn muốn tạo ra
và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn tạo ra những quan sát này, tuỳ thuộc vào
tất cả những điều đó, bạn tiếp nhận một phần giới hạn nhất định của thực tế.
Rốt cục, hệ thần kinh của con người chỉ có thể tiếp nhận bước sóng ánh sáng từ
400 đến 750 nanomet. Và nếu chúng ta ngẫu nhiên đồng ý với các quan sát từ các
giác quan của chúng ta và sự lí giải cho những quan sát này, thì chúng ta đã tạo ra một khuôn khổ cho những lí giải mà
chúng ta thống nhất.
Chúng tôi gọi phương pháp này là “khoa học”.
Chúng tôi thường coi khoa học như là một phương pháp khám phá sự thật khi mà trên thực tế, khoa học - như cách nó được
kết cấu và hoạt động cho đến nay - thực sự cũng chẳng phải là một phương pháp
để khám phá sự thật. Nói đúng hơn, nó là một phương pháp khám phá khung khái niệm hiện tại của chúng ta
về những gì chúng ta cho là sự thật. (…). (Deepak
Chopra-tiến sĩ y học. Vật lí lượng tử và ý thức (Trí tuệ nổi trội); Vũ Thị Hồng
Việt dịch).
---
* Nền vật lí này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những liên quan
vật chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong mối
tương quan với cái toàn thể.
(…) Ngày nay vật lí hiện đại đã phát triển một thái độ rất khác. Nhà vật
lí đã nhìn nhận rằng, tất cả lí thuyết của họ về hiện tượng tự nhiên, kể cả
những quy luật mà họ mô tả, tất cả đều do đầu óc con người sáng tạo ra; tất cả là tính chất của hình dung của chính
chúng ta về thực tại, chứ không phải bản thân thực tại.
(…) Trong vật lí lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể
chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn trong đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa
người quan sát và vật bị quan sát hoàn toàn xoá nhoà, trong đó người và vật
hoà nhập làm một.
(…) Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay đổi
sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi từ tâm can - từ ý định ngự trị và
điều khiển thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động. (Fritjof Capra-giáo sư tiến sĩ vật lí. Đạo
của vật lí; Nguyễn Tường Bách dịch).
---
* (…) Dần dà trong quá trình tiến
hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ
– là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo
toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra
Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).
(…) Liệu con người trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia
không? Sau khi tạo bộ gen và nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con người (sinh
đẻ đứa trẻ) trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho mình chức năng tư duy chủ yếu.
Trong quan niệm tôn giáo, khi đứa bé chào đời đu-khơ nhập vào đứa trẻ và ấn
định những năng lực tư duy chủ yếu của con người. Nghĩa là, chúng ta suy nghĩ chủ yếu nhờ vào đu-khơ
sống ở thế giới tế vi. Nhờ năng lượng thế giới vật thể (ăn uống) não người
có khả năng vặn các trường xoắn của thế giới tế vi và như vậy hỗ trợ đu-khơ
trong quá trình tư duy. Ngoài ra, não còn tạo các trường xoắn phụ hình thành
đu-sa (sinh trường) ở dạng các thể thanh bai và các thể khác hỗ trợ cơ thể
người hoạt động. Sau khi xác thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể
thanh bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ
thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống ở thế giới tế vi để rồi lúc nào đó lại bước
vào kiếp mới. Vậy là con người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể
nhờ các “nỗ lực” của thế giới tế vi, là
sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể và thế giới tế vi.
Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma
(nghiệp), tức là các “vết tích” của
các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể,
đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…) Chính con người khác
biệt với con vật ở chỗ: bộ máy tư duy của con người có nhiệm vụ hoàn thiện
đu-khơ (đưa vào đó nhiều thông tin xây dựng) và bằng cách đó, hoàn thiện hình
thái sự sống ở thế giới tế vi. Nói cách khác, là đứa con thể xác của sự sống
nơi thế giới tế vi, con người có sứ mệnh
thông qua thế giới vật thể thúc đẩy sự tiến bộ nơi thế giới tế vi. Con
người được tạo ra cũng là bởi lẽ đó. (…)
(…) Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để
nhanh chóng thay con người độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với
hi vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai tái
sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì
vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục và
thiên đường có cơ sở. (Erơnơ
Munđasep-nhà bác học lớn quốc tế. Chúng ta thoát thai từ đâu; Hoàng Giang
dịch).