Đọc “Vô
Quái Ngại” Tập Thơ
Lê Văn Thanh
- Châu
Thạch
Cầm tập
thơ của tác giả Lê Văn Thanh trên tay, cái tựa đề của tác phẩm thật
khó hiểu đối với nhiều người: Vô Quái Ngại. Vậy vô quái ngại là
gì? Đó là một cụm từ nằm trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, một
kinh căn bản và phổ thông
của Phật Giáo, được hiểu đại
khái “Vô” là không, “quái ngại” là chướng ngại. Vậy “vô quái ngại”
là không còn chướng ngại, là ở trạng thái tâm không bị ngăn trở
bởi bất cứ hiện tượng và tâm lý
nào, nên không còn vướng bận, nghi ngại hay sợ hải bất cứ điều gì
xảy ra ở ngoài đời hay chính trong lòng mình. Từ đó tâm hết vô minh,
hết nghi ngờ, an nhiên tự tại, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng,
đạt cứu cánh hạnh phúc là Niết Bàn.
Tất nhiên,
đặt tựa đề tác phẩm của mình như thế, nhà thơ Lê văn Thanh không tự
cho mình chứng được cảnh giới ấy mà ông chỉ muốn hướng tâm linh của
mình về mục đích của đạo pháp, bày tỏ một chân lý sống thiện lành
giữa cuộc đời đầy dẫy ta bà và nhiểu nhương nầy.
Tập thơ
có hầu hết là Đường thi và một số ít bài theo thể thơ khác, viết
về nhiều đề tài trong cuộc sống. Tất nhiên một tập thơ như thế không
dễ gì cuốn hút được nhiều người đọc. Nếu người đọc không có chút
khiếu văn chương, không sâu nhiệm trong cuộc sống và hời hợt với triết
lý đạo Phật thì tất nhiên không hứng thú với tập thơ nầy. Tuy nhiên,
nếu ai đọc và cảm nhận được thì sự tâm đắc sẽ đưa ta vào khu rừng
cây cao bóng cả của văn chương, dẫn dắt ta đến nhưng lâu đài lung linh
của trí tuệ ẩn trong không gian yên
tỉnh cúa thiền, thụ hưởng thứ thời gian êm đềm trôi của tâm trắng
trong và thanh tịnh.
Ta hãy
đọc bài “Vô Cầu” để hiểu cái tâm Vô Quái Ngại của nhà thơ:
Phong trần
tạm trú đến rồi đi
Vô niệm
tuỳ duyên tiếc nuối gì
Cay đắng
ngọt bùi tuỳ khẩu vị
Được còn
thua mất để tâm chi
Ánh hồng
chiễu rọi trời tươi sáng
Bóng tối
bủa vây đất thẩm sì
Không có
có không như thị hiện
Mê mờ
chấp trước hoá tham si
(Vô Cầu)
Theo Phật
pháp tâm “vô niệm” không phải là tâm không có suy nghĩ, không có tư
tưởng. Tâm vô niệm là cái tâm mà tư tưởng, suy nghiệm không dính vào ô
dơ của trần gian. Bài thơ “Vô Cầu”
cho ta thấy chân lý là sự tự nhiên được diễn biến tuỳ theo duyên mà
có. Vị cay đắng hay sự được thua,
ánh hồng hay bóng tối là vô niệm, nghĩa là nó trong sạch mà xuất
hiện khi có, khi không tuỳ duyên của nó. Nếu con người “tiếc nuối”, tức
là khởi động cái tâm phàm, tức là
bị “quái ngại”, tức là “niệm”. “Niệm” như là gởi sự ô dơ của thế
gian vào môi trường tinh khiết, thì tức khắc “Mê mờ chấp trước hoá
tham si”.
Không chỉ
dùng Đường thi để bày tỏ ý nguyện tu tập của mình, nhà thơ Lê Văn
Thanh cũng gởi tâm tình của mình vào câu lục bát:
Lòng trần
đón gió hư không
Đường
trần vô ngại suối dòng như như
Cõi trần
sạch bóng phù hư
Tây phương:
Suối đó – Thuyền từ tiêu diêu
Đất trời
đâu chốn hoang liêu
Tâm bình
ý tịnh: Sớm chiều chùa đây
Gió yên
biển lặng quang mây
“bát phong
bất động” phương tây: Tâm thường
(Lời vọng hư không)
“Hư” nghĩa
là không có thật, “không” nghĩa là trống. Theo thuyết nhà Phật nếu
bạn hiểu về sự hư không thì tâm hồn bạn sẽ thanh thản, lúc đó đường
trần của bạn sẽ ‘”vô ngại suối dòng như như”. Chữ “như như” có thể
hiểu là chân như, là sự giác ngộ. Bài thơ cho ta biết chùa không ở
đâu xa, nó ở ngay trong tâm bình tịnh của ta. Khi ta có tâm bình tịnh
thì “bát phong bất động” tức là tám ngọn gió thăng trầm của cuộc
đời ngưng thổi. Tám ngọn gió đó chia làm bốn cặp: Hưng thịnh, lợi
lộc, suy sụp và điêu tàn. Khi tám ngọn gió bất động thì ta có “tâm
thường” tức là tâm an lạc.
Tập thơ
còn nhiều bài thơ tải đạo, giúp cho người đọc sâu nhiệm thêm về pháp
môn tu tập. Nhờ lời thơ cô đọng giáo lý, người đọc có tiền duyên dễ
dàng hiểu qua trực giác như “kiến tánh”, nhưng không phải “kiến tánh
thành Phật” mà thành con Phật. Ngoài những bài thơ như thế, tập thơ còn
có những bài thơ khác tưởng nhớ đến quê hương, đến kỷ niệm trong
đời, đến nhiều vấn đề trong cuộc sống. Tất cả đều tiềm ẩn, mang
mang cái phong cách sống “vô quái ngai” buông bỏ được cái tâm bất
tịnh, tạo nét đẹp cuộc sống bàng bạc trong thơ một khung đời an
tịnh.
Hãy đọc
bài thơ “Nhàn Ca” để thấy niềm vui thanh khiết trong tâm hồn:
Trăng non
chớp mắt hoá trắng già
Thấp
thoáng song ngoài bóng ngựa qua
Mượn chén
lưu linh mời Đế Thich
Ngâm thơ
Lý bạch ngắm hằng Nga
Thanh minh
ý đạt tình non nước
Hạ chí
thi thành thứ gấm hoa
Thu liễm
hàm tàng muôn sự sống
Mầm xuân
đông tận dậy hoan ca
( Nhàn Ca)
Đọc bài
thơ ta thấy trong vế mở, hình ảnh vô thường diễn ra chớp nhoáng. Vậy
thì các vế thơ sau phải buồn lắm. Nhưng không, nhà thơ đã vẽ vào bức
tranh những cảnh sắc bốn mùa thanh trong và tươi đẹp, gíán tiếp bày
tỏ sự hoá giải trong tâm hồn mình, biến sự buồn thành niềm vui thanh
khiết.
Bài thơ
“Tiêu Dao” của tác giả là bản hoà điệu linh hồn phật tánh trong cõi
vô vi của Lão giáo:
Tâm hư
hành giả xả căn trần
Ý thức vô
môn hết thở than
Nhất hấp
đất trời thôi chuyển hoá
Nhất hô
vạn pháp chẳng hư hàn
Đường về
bản thể hoà non nước
Tự tánh
Bồ Đề nhập gió trăng
Dòng sống
vô thường như thị hiện
Tiêu dao
tự tại với mây ngàn.
(Tiêu Dao)
“Tự tánh
là Bồ Đề” nhưng không về cõi Tinh Độ, không bay đến cõi Niết Bàn” mà
lại “hoà non nước”, “nhập gió trăng’’ “Tiêu dao tự tại mây ngàn” nghĩa
là tan vào trong vô vi trời đất. Bài thơ cho ta một quan niệm sống hay
một triết thuyết “nhị giáo” vừa sống đạo của triết gia vừa đầy
chất lãng mạn của tâm hồn người thi sĩ. Ở lối sống nào thì phong
cách cũng thoái mái, buông bỏ trần gian, êm ái bay cao bay xa đến một
chân trời im lặng siêu việt.
Ẩn hiện
trong thơ của Lê Văn Thanh, một tâm hồn chưa đầy thi phong, tồn tại trong
trời đất mông lung hương sắc và mộng mơ. Sự hưởng thụ của thi nhân
trong cuộc sống nầy nó cũng thanh khiết như con bướm hút mật, mật
chứa trong lẽ đạo tuyệt vời, và lẽ đạo tuyệt vời tạo nên một tình
bác ái yêu thương tha nhân:
Trước
thềm thi lão ngắm quỳnh hoa
Trăng toả
vườn khuya ngan ngát và
Tứ lộng
từ chương khai cú đẹp
Tâm tình
ý mãn nhạc hoan ca
Không gian
bất niệm thời gian định
Pháp giới
vô ngôn thế giới hoà
Xuân hạ
thu đông đồng nhất quán
Trẻ gà
tật bệnh bạn bè ta
(Lạc Thọ)
Qua thơ ta
thấy người thi lão ngắm hoa trong vườn trăng. Hoa và trăng làm nên thơ.
Thơ ấy có tứ và ý nằm trong bất niệm và vô ngôn của một thế giới
an hoà bốn mùa đồng nhất. Rồi từ cái tất cả đó nẩy sinh tình yêu
vĩ đại trong câu thơ kết : “Trẻ già tật bệnh bạn bè ta”. Bài thơ từ
một đoá Quỳnh Hoa, cho ta hưởng cái lạc thú lồng lộng giữa trời,
trong sự thanh tịnh lắng đọng tâm hồn và trong thứ tình yêu vô đối
phát sinh trong lòng.
Nói chung
thơ lê Văn Thanh không phải là thứ thơ dễ hiểu. Không dễ hiểu vì nó
là sự tích tụ, sự cô đọng lời dạy con đường tìm chân lý của Phật.
Thế nhưng thơ ấy cần thiết cho cuộc đời, để thanh lọc tâm hồn, để
hướng dẫn nguyên tắc sống, để nâng cao nhân cách làm Người viết hoa,
chưa nói đến sự ngộ đạo, đạt đạo là cái cao xa. Nói thế không có
nghĩa là tiếng thơ “Vô Quái Ngại” khô khan. Nếu bạn đọc không chịu
đọc thì thôi, nhưng nếu chịu đọc thì ta hành hương đến một miền cổ
tích, với biết bao vẽ đẹp thâm thuý, kích tích trí tò mò, mở rộng
kiến thức và cho ta như hít thơ thoả lòng những cơn gió mát đầy hương
Tập thơ
có cả trăm bài thơ, người viết chỉ lướt sơ qua năm bài thơ chưa phải
là hay nhất. Mong rằng người đọc sẽ tìm được cho hồn mình nhiều
phút giây an vui hơn cả sự thư giản khi đi vào vườn thơ của tâm hồn Lê
Văn Thanh ./.
Châu Thạch