Cái Chết Bất Tử - Nguyễn An Vinh
Cái chết của Ông Long là một cái chết bất tử!
Dưới chân tượng đài của Thủy quân Lục chiến, xác một
người Cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người Sĩ quan Cảnh
sát đeo lon Trung tá. Ông mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long.
Trung tá Cảnh sát Long đã tự sát ở đây, Cộng sản để mặc
ông ta nằm gối đầu trên
vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14
giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm Trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người
không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết.
Tiểu sử Trung Tá Nguyễn văn Long.
Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà
chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu
sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về
Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó
không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ
Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung
Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy
Trưởng Nguyễn An Vinh.
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ
nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt
là Thừa Thiên Huế, hoạt động ngành An ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong
vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức
32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt
Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống
đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng
6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm
chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại
những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động
này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh
Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm
1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn
loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như hoạt động, Ông cho lệnh di
chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một
tháng để thu xếp gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có
đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung
Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh
Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng,
Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống
ai :
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy
Tân, giữa lòng Thành Phố Đà Nẵng, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng
vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không
điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà
ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một
cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu,
bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều
người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên
họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc
đầu nói :
“…tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi
còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực,
đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào.
Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường.
Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong
lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một
vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do
sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh
luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông
Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa.
Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui
vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính
Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn,
không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa
đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn
Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường
dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những
lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp,
quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều
giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất,
không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện
Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện
nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương
nói về Trung Tá Nguyễn Văn Long:
“…Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả
(tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy) mới gia-nhập Ngành An
ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương
bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng
lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm
1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố
Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh
Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều
tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ
đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình…
…Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả
năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn
răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người
khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người
bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn…
… Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn
20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua,
có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với
đồng lương của một công chức.
… Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung
năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm
Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của
nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng
trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời
xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay
môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật
khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình theo đạo Công Giáo, nhà
thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Nhà Long cửa đóng then cài. Long không
tiếp bất cứ ai.
…Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công
an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh
Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa
cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ
trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm
mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng
phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cười thành tiếng và nói
đùa : “…Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ
phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh
di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải
ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người
thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng
cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy…”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung, Ông cho biết
vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối.
Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp
ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề
nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng
Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông
cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn
Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi
coi, Long từ chối. Long nói:
“…chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử
vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi,
không nên buộc… Ông Giám Ðốc kết luận :…Long khắt khe sắt thép với chính mình
nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới
giam giữ mình…”
Năm 1970, tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu
Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu
một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như
trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước
quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước
mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này
là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một
bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới, toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác
ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy
Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng
thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn,
lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ
Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết
gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra
biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang
ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà,
không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa.
Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc
Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho
tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng,
tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn
lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông
mới chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những
thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời
tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại.
Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục
cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra
tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi
Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội
vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ
nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia
đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo
quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt
về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt
Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần
Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm
một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn
ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại
không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ,
tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình
nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh
dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành
phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho
Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện
bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn
cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là
chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc
Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong
vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui
vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại
gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết : thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy
một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp
từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong
phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng
của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm
Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở
bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát :
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần,
nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang
thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ.
Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo
làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều
người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy
Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh
gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản
đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy
sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa
thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào
to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của
các con làm trọng. Ông thường dặn con : dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được
ba mớ chữ. Câu Ông thường nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng
ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá
hơn là việc tay chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy
cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp
sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất.
Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi Không quân, một Thiết giáp, ba
Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng
các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có
chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như
thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu
tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang
nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy
tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng
Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng
là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí
phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng
kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi
không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử
tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long
không bao giờ xin "ân huệ" cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng
lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ
trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi... Niềm ao ước bình thường giản dị ấy
không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng Ba 75. Tai trời ách nước đổ
sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ
vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại
biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu
cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng
gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự
sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi
thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức
của Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng
trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ
Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng
không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận
đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận
đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong
túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ
theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho
Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không
phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có
chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa
năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký
của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ
nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ
hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương
tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba
vào nhận xác. Tới Sài Gòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai
tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall.
Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ
dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ
tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các
con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và
xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn
miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy
đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công
khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người
trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng,
đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ
Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự
đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân viên Dân
Chính đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí
bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của
Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh
nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm
không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài
Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống
đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ
Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình
tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề,
thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào
kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính
xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương
mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái
chết của Long là một cái chết bất tử!
25/03/2017.
Nguyễn An Vinh