Cầu Lòn Quảng Trị - Nguyễn Huế
Quảng trị và Huế đều có Cầu Lòn, tiếng gọi
chung và thân thương của dân địa phương. Nó thể hiện từ sự kiện thực tế, đường
bộ ở trên và cầu sắt ở dưới hoặc ngược lại.Tuy có khác nhau vị trí của đường bộ
Huế và Quảng trị,
nhưng người ta vẫn gọi là Cầu Lòn.Cầu Lòn ở Huế gần cầu Bạch
Hổ, đường bộ trải nhựa ở dưới, đường sắt ở trên.Người dân từ Kim Long, Long Thọ
phải đi qua đường này. Trái lại ở Quảng trị cũng có một cái Cầu Lòn nằm tại La
vang Trung đoàn, nhưng thuộc Thôn Long Hưng, Xã Hải Thượng, Quận Mai Lĩnh. Đường
xe lửa chạy ở dưới, đường bộ ở trên với hình vòng cung, nối giao thông từ Thánh
Đường La Vang về đến Thị Xã Quảng trị, băng qua ngã tư Quốc Lộ 1 từ Nam ra Bắc
và từ Bắc vào Nam.
Tôi ra sống ở đây với gia đình từ năm 1961, học
trường Tiểu học Tiến Đức. Nhà tôi ở cuối xóm, dọc theo đường rầy, gần một khe
nhỏ. Bên cạnh là nhà chị Thu Vang, vợ của anh Trần Đình Thái.Trong khuôn viên
nhà chị Thu Vang, còn có gia đình chị Lý, Sự từ Gio Linh vào.Phía sau có nhà bạn,
tên là Động, giờ không biết ở đâu. Đối diện phía bên kia đường rầy là nhà Ông
Chít, làm nghề Y tá. Ông có một người con gái tên Nhung, học trường Bồ Đề nổi
tiếng là hoa khôi thời đó. Nếu các anh là lính Trung Đoàn 1, Công Binh, Pháo
Binh, Thiết Giáp đồn trú quanh vùng đó đều biết Cầu Lòn là tụ điểm cờ bạc trong
những ngày gần Tết và sau Tết, đó là trò chơi Bầu, Cua, Cá, Tôm bày dọc đường rầy.
Có một năm, Lộc chỉ có 1 đồng bạc, chơi bầu cua ăn được 500 đồng, nhưng sau đó
đánh cũng thua hết. Trong dịp này tôi thường thấy ông già, hình như ông ở vùng
Thạch Hãn, chạy chiếc xe đạp, có một giỏ đựng đâỳ thuốc lá và vài xấp vé số kiến
thiết, ông thường rao to “ Ai mua thuốc lá Quân bọp bụ, vé tức cười không”. Một
món trò chơi khác, có vẻ ăn thua đỏ đen hơn, đó là món xóc dĩa, bên chẳn, bên lẻ,
nhiều người tàn gia bại sản về món ăn chơi này, như hai câu thơ ở dưới:
Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết đem thân vào tù.
Nhà ông Ích là tụ điểm lớn nhất, có máu mặt ở
Cầu Lòn, gây sòng to, lo ăn uống và lấy xâu. Xâu là nguồn lợi rất lớn nên nhiều
người thích tổ chức, nhưng cũng có sự nguy hiểm của nó, dẫn đến chết người như
trường hợp nhà ông Đô. Nhà gần giếng phía sau nhà tôi khoảng 30 mét, ông có hai
đứa con trai tên là Đô và Cóc, đã chứa cờ bạc. Trong lúc đang sát phạt ăn thua,
bỗng dưng có một toán lính khác dùng lựu đạn đã mở chốt, lùa hềt tiền trên chiếu,
không biết lý do gì, lựu đạn đã nổ, cả gia đình đều chết hết. Hầu hết những tay
chơi đều là lính, độc thân xa nhà. Sau những lần nghỉ dưỡng sức, không hành
quân, họ thường la cà các quán nhậu hoặc vô sòng bài bạc này.Cuộc sống của họ
chẳng biết chết khi nào.Một viên đạn vô tình nào đó sẽ đưa mạng sống của họ xa
lìa thế gian, bởi vậy họ tìm nguồn vui nhất thời, cần có tiền ngay để tiêu
xài.Thật thế, những người lính mang dòng máu đỏ đen này, đâu biết tương lai,
đâu biết ngày mai.Ngày mai đi về đâu họ đâu cần biết và chỉ biết hôm nay.
Từ
Thạch Hãn hướng về Thánh Địa La Vang, đi qua ngã tư Quốc Lộ 1, qua khỏi nghĩa địa
khoảng nửa cây số, đây là chổ bắt đầu lên dốc. Bên phải là đất nghĩa địa, được
dời đi chỗ khác, để lấy đất đắp làm bờ dốc tạo thành một con đường mới, tráng
nhựa với độ dốc khoảng 10-15 độ tính từ chân tới cầu. Hai mố cầu bằng bê tông cốt
thép được lắp đặt song song với đường rầy. Trên hai mố cầu này đươc đặt lên những
dầm bê tông cốt thép, và được phủ bởi nhựa đường và bê tông. Hai lan can cũng
được đúc bằng những côt bê tông nhỏ để giữ an toàn cho người đi bộ cũng như người
lái xe khi đi qua cầu này (xin xem hình ở dưới)
Vùng
đất để lấy đất đắp, tạo nên một cái hồ lớn.Một góc hồ được ông Nghêu xây lên một
cái nhà sàn, giống như một nhà thủy tạ, dưới nuôi heo suốt ngày kêu ục ịch. Thời
đó, chính quyền bắt thanh niên phải gia nhập Nhân dân Tự vệ, tôi cũng dính,
không đươc miễn, dù năm đó đang học lớp 11, chuẩn bị thi tú tài 1. Khi làm lính
bất đắc dĩ này, thỉnh thoảng tôi được phân công trực gác tại địa điểm này, một
địa điểm đáng nhớ trong thời binh lửa thời bấy giờ, vào khoảng năm 68-69, và
luôn luôn nhớ như bài thơ tôi sáng tác ở dưới:
Nhớ Nhân Dân Tự Vệ
Nhớ đồ đệ Xạ Nghêu
Nhớ võng treo trên gác
Nhìn xa xa man mác
Đàn heo con ngủ dưới
Súng grant trên gác
Lác đác vài ba cậu
Châu đầu ngồi suy nghĩ
Bảo vệ cái gì đây
Chung quanh là ao hồ
Hỏi trời, đất có biết
Cảnh tình đời thế sự
Tôi đâu muốn thế này
Xin hai chữ bình yên
Thanh niên thời ly loạn
Loạng quạng là ủ tờ
Lơ mơ không tính toán
Khủng hoảng với cảnh này
Bởi vậy gặp thời thế
Thế thời phải thế thôi!
Giờ xin các bạn định hướng để về Cầu Lòn. Thực
ra có hai hướng để về từ thị xã Quảng trị:
Một là chạy theo đường Trần Hưng Đạo vào hướng
ga Quảng trị chạy dọc theo theo đường đất, song song với đường rầy, qua khỏi
xóm nhà bên phải, có nhà Võ Quê, Thái Đào, đi một đoạn nữa, bên trái là nghĩa địa,
bên phải là đường rầy, thì tới Cầu Lòn. Chỉ có xe đạp, xe gắn máy và người đi bộ
qua dưới gầm cầu, xe hơi không thể qua được. Qua khỏi gầm cầu là nhà bà Thao
phía bên trái, bên phải là nhà ông Xạ Nghêu và tới cuối cùng dọc đường rầy của
xóm là nhà tôi.
Nhà tôi đất khá rộng, chung quanh hàng rào trồng
bằng cây dứa, có gai, đọt non có thể ăn được, lá có thể cắt ra làm chong chóng
cho con nít chơi, rễ cắt ra làm bốn, phơi khô, có thể bện lại thành một dây gàu
múc nước, hang dứa làm cho tránh trâu khỏi đi vào phía trong sân. Tuy nhiên
trâu cũng hay cạ lưng vào đây để đỡ ngứa. Bên trong có ba bụi tre rất lớn, gia
đình tôi thường lấy mụt măng, lột vỏ, cắt ra từng mảnh nhỏ, luộc chín nhừ, vớt
ra, rồi dùng dầu phụng để xào với tỏi, nấm mối, ớt. Dù không có thịt nhưng vẫn
ngon đáo để. Hoặc làm măng chua để nấu canh với cá đồng, món ăn thật là tuyệt đối
với gia đình tôi vào thời đó. Một cái sân đằng trước rộng, thường để gốc củ sắn.Gốc
này để lâu ngày gần mục, nấm mèo mọc lên từ đó.Ngoài gốc sắn ra còn có gốc cây
sim được đào bới từ rừng về, than đốt lò từ gốc cây sim rất là tốt và lâu tàn.
Có một lần có một con rắn học trò ở trong đống gốc đó bò ra, cậu Phước con bà
Ngại đập chết, tự nhiên nhiều con rắn khác bò ra bu quanh con rắn chết đó, thật
là một hiện tượng lạ lùng mà tôi chưa từng gặp. Vì không thể có rắn nhiều trong
cùng một lúc như vậy được, phải có một sự huyền bí nào đây. Tôi đã liên tưởng
như chuyện con rắn trong câu chuyện trả thù công thần Nguyễn Trãi, dưới thời
vua Lê Lợi, bị tru di tam tộc, ảnh hưởng đến ba đời, bởi vậy tôi liền nói cậu
Phước ra chắp tay cầu khấn về sự ngỗ nghịch của mình và xin tha thứ, một lúc
sau bầy rắn biến mất. Mỗi lần sau khi đi học về, tôi thường hay tụ tập bạn bè,
trong đó có Phước, Lộc, Thọ em của chị Thu Vang, Động ở đằng sau, Tý ở bên kia
đường rầy, và chị Khâm ở thuê trong nhà, quây quần bên một cái bàn sắt mỗi bề
khoảng 60 cm, bày bộ bài Tây tú lơ khơ (Playing Card) để chơi Xì dách, Xì tố.
Dù một ván một đồng hoặc chỉ tố đến 5 đồng là tối đa, nếu xui, chơi cả buổi
cũng mất vài chục.Hâu quả của nó còn mang lại dư âm đến bây giờ là vết sẹo trên
má tôi. Có một lần khi chơi bài xi tẩy với Đô, Cóc, Yến, trong đó có tôi là đủ
bốn người để chơi bài,Đô bấm bài làm dấu trên góc của con Xì, dù đó là xì cơ, xì
rô,xì bích hay xì chuồn, tôi phát hiện được, rồi gây gỗ nhau. Đô lấy cái gàu nước
có dây quay vào mặt tôi, làm sưng mấy ngày mới hết. Lúc đó tôi tức quá tôi chạy
ra đường rầy lượm cục đá, ném trở lại vào đứa em của Đô.Cóc bị viên đá trúng
vào miệng phải chạy về nhà, về sau với thương tích hai bên đều có, bị qua bị lại
nên cũng huề.Nhớ lại thời đó với đam mê cờ bạc đã qua đi, môt kỷ niệm khó phai
mờ trong ký ức dù tuổi đời đã chồng chất.
Nhà
tôi gần bên một cái lạch, có một khoảng đất rộng nằm sát đường rầy và có con đường
dốc nhỏ. Có một lần ông Phiến, nhà ông ở trên xóm cát, sát bên hông Trung Đoàn
1. Ông có một chiếc xe xích lô, thường chạy ở thị xã Quảng Trị. Có một buổi
trưa ông đậu xe ở bãi đất trống bên cạnh nhà tôi, vì cái cầu nhỏ không thể mang
chiếc xích lô về nhà, tình cờ chiếc xích lô lao xuống hố nước sát cạnh nhà tôi,
bởi vì gió hay bởi một gã nghịch ngợm nào đó. Đặc biệt ở Cầu Lòn, mỗi nhà đều
có hầm trú ẩn, để tránh pháo kích. Hầm được đào sâu dưới lòng đất, to nhỏ tùy
theo chủ nhà. Hầm có thể làm trong nhà hoặc ngoài vườn.Trên hầm được gác ngang
bởi những tà vẹt đường rầy, bên trên lót ván hay tôn, sau đó chất bao cát lên
trên và xung quanh, chỉ chừa một lỗ làm bậc thang đi xuống.Mỗi lần nghe còi hú
trong đồng là lật đật bò xuống hầm. Khoảng nửa tiếng hoặc một tiếng, không nghe
súng nổ lại bò lên. Sống trong vùng lửa đạn lúc nào cũng hồi hộp, lo âu, sống
đó, chết đó chẳng biết đằng nào mà mò. Chỉ cầu ơn trên phò hộ và ban phước
lành. Sau này, có gia đình anh Nguyễn quang Thơ và chị Năm cũng ở trong nhà.
Sau biến cố 72, mỗi người mỗi ngã, và sau gần 40 năm mới gặp lại ở Hội Ngộ Đồng
Hương tại Boston, Massachusetts năm 2012.
Hai là hướng từ Thị xã qua ngã Quang Trung, tới
ngã tư có trường Nguyễn Hoàng quẹo phải dọc theo đường Thạch Hãn, một con đường
có rất nhiều dân học sinh Nguyễn Hoàng trú ngụ, như Trần văn Hảo, Trần thị Sáo,
Trần phong Dũng, Ngô mậu Dũng, Bùi Truyền, Bùi Bá, Nguyễn Vang gần tiệm sửa xe
đạp Công Tâm. Bên cạnh có con hẻm đi vào nhà Lê thiện Thuyết. Sau khi qua khỏi
ngã tư Quốc lộ 1, qua khỏi khu nghĩa địa thì đến chân dốc đường lên cầu. Muốn
vào xóm Cầu Lòn phải rẽ trái, tại chỗ mép đường có nhà bạn tên là Ruộng, học
Trung Học Bồ Đề, có sáu ngón. Trước mặt nhà Ruộng có một cái giếng chung. Trong
xóm đó tôi cũng có vài người bạn, như là Hoa con bà bán chè. Đặc sản chè của
bà, có món chè đậu ván đặc sền sệt, ngon hết chỗ chê, lúc nào cũng hết trước so
với các món chè khác. Ngoài ra còn có Nguyễn Công Hiệu, một người bạn thân nhất,
một giáo viên dạy Vạn Vật lớp 12 tại Đà Nẵng, nay đã nghỉ hưu. Chúng tôi vẫn
thường xuyên liên lạc từ khi vào học trường Nguyễn Hoàng cho đến bây giờ. Thời
đó tôi tưởng Hiệu được lọt vào mắt xanh của Lụa con bà Thao, một người con gái
đẹp thùy mỵ, có mái tóc dài che khuất bờ vai, người thon gầy cao ráo, dáng đi
thướt tha khi mặc áo dài trắng, tung tăng bên đám bạn nữ sinh khác, hay đạp xe
đạp chạy thường ngày qua con đường nhỏ hẹp.
Bây
giờ xóm nhỏ Cầu Lòn không còn nữa, đường rầy được tái dựng lại, sạch sẽ, có kỹ
thuật, để cho tàu lửa qua lại suốt ngày. Hai bên đường không còn nhà san sát,
không một tiệm tạp hóa, không một bóng người nào qua lại. Thay vào đó là những
bụi chuối, những hàng cây lạ và một mái nhà của ai đó được dựng lên sau biến cố
75.Cảnh cũ người xưa đâu còn nữa, chỉ còn là kỷ niệm.