Xuân Bất
Diệt - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
(Bài thơ & Chứng nghiệm tâm linh…)
Ngắm mây trắng hành hương về
huyễn mộng
Nghe cây xanh… xanh tận đáy
lương tâm
Xuân bất diệt bởi lòng ta trải
rộng
Ta thương nhau nên yêu cả đất
trời.
(Đường về minh triết)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
---
CHỨNG NGHIỆM
TÂM LINH
CỦA
NGÀI J. KRISHNAMURTI
(Trích
trong Bút Hoa (nhật kí); dịch giả: Ẩn Hạc.
Jiddu
Krishnamurti là một danh nhân giác ngộ (không theo tôn giáo nào cả); Ngài được
Liên Hợp Quốc tôn vinh; được rất nhiều người với đủ mọi thành phần xã hội
– trong đó có Ngài Đạt Lai Lạt Ma & Nhà khoa học danh tiếng-giáo sư tiến sĩ
vật lí David Bohm – ngưỡng mộ).
* Sống
thì vượt ngoài thời gian, sống là hiện tiền sinh động, nhưng hiện tiền này
không lệ thuộc vào thời gian. Sống là chú tâm, không nằm trong biên cương của
tư tưởng, trong giới hạn của cảm thức. Từ ngữ dùng để thông tin và, cũng như
hình tượng, ngay chính chúng không có một ý nghĩa nào. Cuộc đời luôn luôn là
hiện tiền sinh động, thời gian luôn luôn thuộc vào quá khứ, và vì thế vào tương
lai. Để cho thời gian (tâm lí) chết đi tức là sống trong hiện tiền. Chính lối
sống này là bất tử, chứ không phải cách sống trong ý thức. Thời gian là tư
tưởng trong tâm thức, tâm thức thì bị đóng khung. Mạng lưới của tư tưởng, của
cảm thức, luôn luôn hằn dấu sợ hãi, đau khổ. Đau khổ sẽ chấm dứt khi thời gian
chấm dứt.
* Ngày
hôm qua thật lạ lùng. “Bờ bên kia” thường xuyên hiện diện suốt buổi đi dạo ngắn
ngủi và vào lúc nghỉ, lại càng mãnh liệt hơn trong khi nói chuyện, duy trì, kéo
dài gần hết đêm và vẫn còn đó lúc thức dậy sáng nay, sau một giấc ngủ ngắn.
Thân thể mệt nhừ, cần được nghỉ ngơi, lại trở nên yên tĩnh một cách lạ lùng,
nhưng phần nhỏ nhất của thân vẫn tỉnh táo và bén nhạy. (…) Tâm là một cái gì kì
lạ; tâm tàng chứa trí óc, tư tưởng, tình cảm và cả đến mỗi cảm xúc tinh tế
nhất, ảo tưởng, tưởng tượng… Tâm không phải là cộng chung hết cả những yếu tố
trên, tuy nhiên không có chúng thì tâm không có; tâm còn hơn hẳn cái nó tàng
chứa. Không có tâm thì những yếu tố nó tàng chứa cũng không có nốt; chính qua
tâm mà chúng có mặt. (…).
(…)
Hoạt động của kí ức, kiến thức đang vận dụng, xung đột của dục vọng đối chọi
nhau, tìm cầu tự do đều luôn luôn bị rào kín trong giới hạn của trí óc; trí óc
có thể thanh lọc, mở rộng, tích lũy những ham muốn của nó, nhưng đau khổ sẽ tồn
tại. Khi mà tư tưởng chỉ là sự đáp trả của kí ức, của kinh nghiệm, thì sẽ không
chấm dứt được đau khổ. Trí óc là một “suy tư” phát xuất từ cái rỗng rang toàn
vẹn của tâm; cái rỗng rang này không có trung tâm do đó có khả năng hoạt động
vô hạn. Từ cái rỗng rang này sáng tạo sinh ra, nhưng đó không phải là tài khéo
của con người. Sáng tạo phát sinh từ cái Không, và đó chính là tình yêu và sự
chết.
* Lại
thêm một ngày lạ lùng. Vào mọi lúc đều có mặt “bờ bên kia”, dù đi đến đâu, làm
việc gì. Trí óc, rất yên tĩnh, không mê ngủ, nhưng tỉnh táo và bén nhạy, hình
như tự chuyển động trong chính nó. Có cảm tưởng là quan sát từ một chiều sâu vô
hạn. Tuy nhọc mệt, thân vẫn thức tỉnh một cách lạ lùng. Một ngọn lửa cháy sáng
không dứt.
* Một
buổi sáng tuyệt vời; nhìn về hướng tây, phía bầu trời một màu xanh thẫm, và mọi
tư tưởng, mọi xúc cảm đều tan biến; cái nhìn này xuất phát từ cái rỗng không.
Trước bình minh, thiền định là cửa ngõ bao la vô tận vào cái bất tri (tâm rỗng
rang vô lượng). Không một thứ gì có thể mở cửa, ngoại trừ hủy diệt toàn bộ cái
hữu tri. Thiền định là sự bùng nổ trong cái hiểu biết. Không phải là hiểu biết
nếu không tự tri; học hiểu để tự tri không phải là tích lũy kiến thức; tích lũy
sẽ ngăn ngại tự tri, vì học hiểu không phải là tiến trình gia tăng. Học hiểu
cũng như hiểu biết, được tiến hành từ sát-na này đến sát-na kia. Tiến trình
toàn thể này là sự bùng nổ trong thiền định.
*
Thiền định không phải là nghiên cứu; không phải là kiếm tìm, thăm dò, khai phá.
Thiền định là bùng nổ và khám phá. Không phải là trí óc bị ngự trị bằng giới
luật, cũng không phải tự phân tích chính mình; thiền định chắc chắn không phải
là đào luyện để tập trung tư tưởng, tư tưởng len vào trong sẽ chọn lựa và bác
bỏ. Thiền định đến một cách tự nhiên khi tất cả sự khẳng định và thành đạt, hữu
vi hoặc vô vi, đều được thấu triệt và tự rơi rụng một cách dễ dàng. Thiền định
là trí óc rỗng rang hoàn toàn. Chính sự rỗng rang đó mới là cốt yếu chứ không
phải cái tàng chứa trong trí óc. Chỉ từ sự rỗng rang đó mới có thể có tuệ quán
được. Đức hạnh phát xuất từ đó, nhưng không phải là luân lí hoặc tư cách đáng
kính trong xã hội. Chính từ sự rỗng rang đó phát sinh tình yêu, nếu không thì
không phải là tình yêu. Nền tảng của đức hạnh nằm trong sự rỗng rang đó. Đây là
chỗ bắt đầu và là nơi chấm dứt mọi sự.
* Sự
hủy diệt tâm lí của mọi thứ đã có – và không chỉ là thay đổi bên ngoài – là cốt
tủy của trí thông minh. Mọi hành động vô minh đều dẫn đến đau khổ, rối loạn.
Đau khổ là vô minh. Ngu si không phải là thiếu kiến thức, mà là thiếu hiểu biết
về chính mình; không hiểu biết về chính mình thì không một chút gì có trí tuệ.
(…) Không có trí tuệ nếu không có tự tri. Tự tri là một thực tại sống động,
không phải là phán đoán. Mọi tự phê đều hàm ý tích lũy, lượng giá từ trung tâm
của kinh nghiệm và của kiến thức; chính quá khứ này làm ngăn trở sự hiểu biết
thực tại sống động. Theo đuổi sự tự tri là một hành động thông minh.
* Sáng
nay thức dậy, vượt trên tất cả thiền định, tất cả tư tưởng và ảo tưởng phát
sinh từ cảm thức, ngay trung tâm của trí óc và xa hơn, ngay tâm điểm của tâm
thức, ngay chính bản thể của con người, rực chiếu một luồng sáng cực mạnh không
mang một chút hình bóng, không bắt nguồn từ một kích cỡ nào. Phép lành ở đó,
bất động. Và cùng với phép lành là thần lực vô cùng tận, và một vẻ đẹp vượt
trên tư tưởng, cảm thức.
* Tâm
thức nhân loại không thể dung chứa cái bao la của sự an nhiên; tâm thức có thể
tiếp nhận nhưng không thể tìm kiếm, cũng như đào luyện cái bao la an nhiên đó.
Hết cả tâm thức đều phải vô tác, không khởi dục vọng, không tìm cầu cũng như
đuổi bắt; chỉ lúc đó mới sinh khởi một cái gì không chung không thủy. Thiền
định chính là tâm thức rỗng rang, không phải để tiếp nhận, mà để buông bỏ. (…)
Chỉ có thể có sáng tạo trong cái rỗng rang.
*
Chiều hôm ấy nó đã ở đó, bỗng chốc tràn ngập khắp phòng… Cảm giác mãnh liệt về
chơn mĩ, sức mạnh, vẻ dịu dàng. Những người khác đều nhận ra.
* Hoạt
động của trí óc được ấn định trước; suy nghĩ, lí luận, nhưng trí óc hoạt động
trong giới hạn, giới hạn không gian và thời gian (tâm lí). Vì vậy trí óc không
thể trình bày, cũng không thể hiểu biết cái chung, cái toàn thể. Cái toàn thể
đó là tâm; tâm thì rỗng rang, hoàn toàn rỗng rang, và vì rỗng rang nên trí óc
nằm trong không-thời gian. Khi được thanh lọc ra khỏi sự ước định về lòng khao
khát, ham muốn, tham vọng, trí óc mới có thể hội nhập cái toàn thể. Tình yêu
chính là sự toàn vẹn đó.
* Mỗi
một mưu đồ của tư tưởng đều phải được hiểu rõ. Mọi tư tưởng đều là phản ứng,
mọi ứng xử bắt nguồn từ đó chỉ có nhấn mạnh thêm sự rối loạn và xung đột.
* Chắc
chắn bản thể hiện diện suốt cả đêm; sáng nay khi thức giấc, bản thể đã ở đó và
hình như tràn ngập toàn bộ đầu và thân. Và tiến trình tiếp tục một cách êm dịu.
Muốn được như thế, phải một mình và tĩnh lặng.
* Có
một hướng không bắt đầu từ đâu và đi về cái rỗng rang vô cùng, trụ xứ của bản
thể vạn vật.
* Trí
óc trở nên ti tiện khi nó sử dụng để học hỏi cái bất tri, cái vô lượng. Chức
năng hoạt động của nó nằm trong cái hữu tri, nó không thể hoạt động trong cái
bất tri (tâm rỗng rang vô lượng). Những sáng chế của nó ở trong phạm vi hữu
tri; nó sẽ không bao giờ nắm bắt được sự sáng tạo của cái bất tri, dù cho dùng
đến ngôn ngữ hay nghệ thuật. Trí óc không thể biết đến chơn mĩ. Chỉ trong im
lặng tuyệt đối, vô ngôn, một sự vô hành không tạo tác, không chuyển động, thì
cái bao la vô hạn mới xuất hiện.
* Khá
đau đớn trưa hôm qua, và hình như có tăng thêm. Đến gần tối cái linh thiêng
hiện hành, thấm nhập cả phòng. Người khác cũng cảm nhận. Suốt đêm tác động cơn
đau có phần hòa hoãn, nhưng áp lực và căng thẳng vẫn còn đó, giống như mặt trời
phía sau đám mây. Sáng nay rất sớm, mọi sự lại bắt đầu. (…) Mọi cảm thức, mọi
xúc động đều liên kết với trí óc, nhưng đó không phải là tình yêu, nhưng cái
xuất thần này chính là tình yêu. Trí óc chỉ có thể nhớ lại rất là khó khăn.
(…)
Sáng nay thật sớm, phép lành gần như bao phủ hết quả đất, đang tràn ngập khắp
phòng. Và theo đó xuất hiện sự tịch tĩnh làm im bặt hết mọi sự vật, một sự bất
động chứa đựng tất cả chuyển động.
* Sống
với một cái gì là thương yêu cái đó chứ không phải ràng buộc vào cái đó.
* Chấm
dứt phiền não nằm trong sự quán chiếu sự kiện thực tế.
* Cái
rỗng rang này không phải là một trạng thái ngoan không, trống trải; đó là năng
lượng không có trung tâm, không có biên giới.
* Sáng
nay dậy sớm để sống trong phép lành. Cơ thể bị bó buộc ngồi yên trước vẻ sáng
sủa đó, vẻ đẹp đẽ đó. Sau đó suốt buổi sáng, ngồi trên ghế dài bên lề đường
dưới bóng cây, phép lành được cảm nhận trong cái vô lượng vô biên. Phép lành
cũng ban cho ta nơi trú ẩn, chỗ bảo bọc, giống hệt cội cây kia với tàng lá, tuy
để ánh sáng soi qua vẫn che mát được dưới ánh nắng gay gắt miền núi. Mọi tương
giao chính là che mát thấm đượm tự do, và chính tự do bảo đảm cho ta nơi trú
ẩn.
* Nếu
bạn có tiền, bạn cũng khổ; nếu bạn không có tiền, bạn cũng khổ. (…) Tiền bạc và
quyền uy ngự trị không dứt; càng có càng muốn thêm, và cứ như thế vô cùng tận.
Nhưng phía sau tất cả tiền bạc và quyền uy ẩn dấu nỗi khổ không tránh được; ta
có thể lãng tránh, tìm quên, nhưng khổ đau luôn luôn hiện diện; với nó không
thể bàn cãi được và nó ở đó, vết đau hằn sâu mà không gì có thể chữa trị được.
* Bằng
vận hành của thời gian (tâm lí) không thể có chuyển hóa được. Phủ nhận thời
gian chính là chuyển hóa; có chuyển hóa khi đã loại bỏ những thuộc tính phát
sinh từ thời gian tức là thói quen, truyền thống, cải cách, các lí tưởng. Phủ
nhận thời gian thì có chuyển hóa, chuyển hóa toàn diện và không phải là thay
đổi hình tướng bên ngoài, cũng không phải thay thế một hình tướng này bằng một
hình tướng khác. Nhưng thu đạt kiến thức, kĩ thuật, đòi hỏi phải có thời gian,
ta không thể cũng chẳng nên chối bỏ; những năng lực này thiết yếu cho cuộc sống
hằng ngày. Thời gian cần thiết để đi từ chỗ này đến chỗ khác không phải là ảo
tưởng, nhưng mọi hình thức khác của thời gian đều là ảo vọng. Chuyển hóa gồm có
chú tâm mà từ đó sinh khởi một hình thức hành động khác. (…).
*
Thiền định là ở chỗ làm tâm trống rỗng hết mọi tư tưởng, mọi cảm thức, vì những
thứ này làm tan biến năng lực; chúng có tính lặp đi lặp lại, đưa đến những hành
động máy móc; hành động này là thành phần cần thiết cho sự sống, nhưng chúng
chỉ là một thành phần. Tư tưởng và cảm thức không thể biết thâm nhập vào cái
bao la vô tận của sự sống.
* Khi
trí óc không còn nuôi dưỡng bằng kí ức, bằng tư tưởng, khi trí óc để cho kinh
nghiệm chết đi, thì hoạt động sẽ không còn quy ngã nữa. Lúc đó trí óc sẽ nuôi
dưỡng các nơi khác. Và chính nguồn lương thực đó sẽ làm cho tâm thức thành tôn
giáo.
* Ra
khỏi tư tưởng là đức hạnh, và đức hạnh là tính mẫn cảm mở rộng, là tình yêu.
Hãy thương yêu và sẽ không có tội lỗi; hãy thương yêu và cứ làm điều gì bạn
muốn, lúc đó sẽ không có đau khổ.
* Trí
óc vận hành trong cái manh mún, từng phần, chia chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó
không bao giờ là cái toàn thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu biết nhưng vô
hiệu. Vì chính bản chất của nó, nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức
cũng thế; tư tưởng, phản ứng của kí ức chỉ có thể vận hành trong cái đã biết,
hoặc lí giải từ kiến thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn hóa. Nó không
thể vượt lên trên chính nó. Nó chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành nhà khoa
học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật gia, kĩ thuật gia, nông gia… Nó hoạt động bằng cách
phóng chiếu lên giai cấp xã hội, đặc quyền, quyền hành, uy thế của nó. Sự vận
hành não bộ và giai cấp xã hội liên kết với nhau chặt chẽ, vì trí óc là một cơ
quan tự bảo vệ. Chính từ nhu cầu này mà những yếu tố đối nghịch và chống trái
của xã hội phát sinh. Nhà chuyên môn thì không có khả năng nhìn được toàn diện.
(…)
Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại, vì củng cố tính vị ngã; vì mang
tính chia chẻ vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu chỉ có giá trị trong
sự nhìn thấu toàn diện đời sống, sự nhìn thấu này nằm trong lĩnh vực của tâm
chứ không phải của trí óc. Năng khiếu với sự vận hành của nó nằm trong giới hạn
của trí óc, do đó năng khiếu trở nên nhẫn tâm, lãnh đạm đối với tiến trình toàn
thể của đời sống. Năng khiếu gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự thành tựu
của nó trở thành ưu tiên hàng đầu, nó đưa đến thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó
chỉ có giá trị nếu nhận thức được toàn thể sự sống. (…).
(…)
Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với sự chia chẻ manh mún, với những
hoạt động cô lập lại nó trong địa hạt giới hạn của thời gian. Trí óc không có
khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống; dù có được giáo hóa đến đâu, trí óc cũng
chỉ là một phần chứ không phải là toàn thể. Chỉ có tâm mới thấy được cái toàn
thể, và phạm vi của tâm bao trùm luôn trí óc; trí óc dù có làm gì đi nữa cũng
không thể chứa đựng được tâm.
Để
nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái buông xả. Buông xả hoặc phủ
nhận không phải là đối nghịch của khẳng định; những cái đối nghịch đều liên kết
với nhau. Sự phủ nhận không có cái đối nghịch. Để có được cái nhìn toàn thể,
trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt đối; nó không được can thiệp vào
bằng cách lượng giá, biện bạch, kết án và tự vệ. Trí óc phải im lặng mà không
bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho trí óc chết cứng, chỉ có khả năng mô phỏng và
tùy hợp. Chính trong trạng thái phủ nhận mà trí óc tĩnh lặng không lựa chọn.
Chỉ chính lúc đó cái nhìn toàn thể mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh
thức, và trạng thái này không gồm có người quan sát cũng như vật bị quan sát,
mà chỉ có ánh sáng, chỉ có sáng suốt. Sự đối kháng và xung đột giữa người tư
duy và tư tưởng kết thúc.
* Thức
dậy sáng nay; mặt trời còn nằm dưới đường chân trời; bình minh đã bắt đầu và
thiền định tự dâng cho “bờ bên kia” mà phép lành là sức mạnh và sáng suốt. “Bờ
bên kia” đã ở đó chiều hôm qua, ngay lúc mặt trời lặn, rất sáng, bất ngờ. Nhiều
ngày nay nó đã không xuất hiện. Thân tự điều hòa theo nhịp độ cuộc sống phố thị
và, khi “bờ bên kia” đến, nó biểu lộ một vẻ đẹp, một cường lực đến đỗi mọi sự
đều im lìm bất động; nó tràn ngập căn phòng và còn vượt qua đó nữa.
* Có
bản thể của thâm cùng ở đó. Bản thể của tư tưởng chính là tâm thái vô niệm. Tư
tưởng, dù có tiếp nối với nhau thật thâm sâu, thật rộng lớn, vẫn luôn luôn
chóng tàn, phiến diện. Chấm dứt tư tưởng chính là khởi đầu của bản thể. Chấm
dứt tư tưởng là phủ định và phủ định thì không có mục tiêu nào xác định. Không
có phương pháp, hệ thống để dừng bặt tư tưởng. Phương pháp, hệ thống chỉ là xác
định tiệm cận với phủ định, và như thế tư tưởng sẽ không bao giờ có thể tự tìm
nơi có bản thể của chính nó. Tư tưởng phải dừng bặt để cho bản thể hiển lộ. Bản
thể của hữu là phi hữu, và để “thấy” cái thâm cùng của phi hữu, ta phải tự do
thoát khỏi cái trở thành. Không thể nào tự do trong sự tương tục, và mọi điều
bao hàm sự tương tục đều dính mắc vào thời gian. (…).
* Cô
đơn một mình, nhưng không một chút gì cô lập, giống như một giọt nước mưa chứa
đựng hết cả nước trên mặt đất.
* Tư
tưởng là vật chất và có thể biến thành bất cứ thứ gì, xấu hay đẹp. Nhưng có một
cái linh thiêng không phát xuất từ tư tưởng hoặc tình cảm, từ đó tư tưởng đã
sống lại. Tư tưởng không thể biết và cũng không thể sử dụng được. Tư tưởng cũng
không thể bộc lộ. Nhưng cái linh thiêng đó hiện hữu, không bao giờ biểu tượng
hoặc lời lẽ có thể chạm đến được. Cái linh thiêng đó không thể truyền thông
được. Đó là một sự kiện thực tế.
Một sự
kiện thì phải được nhìn thấy, nhưng cái thấy này độc lập với ngôn từ. Khi sự
kiện được diễn giải thì thôi không còn là sự kiện nữa, mà biến thành một cái gì
hoàn toàn khác hẳn. Thấy là một điều gì hết sức quan trọng. Cái thấy này vượt
ra ngoài không-thời gian, nó ngay đó và trong khoảnh khắc.
(…) Sự
hiện diện của nó đang ở đây, tràn ngập khắp phòng, chan rải trên các ngọn đồi,
trên những dòng nước, bao phủ hết cả hành tinh.
Đêm
vừa qua, như đã xảy ra một hai lần trước đây, thân thể chỉ còn là một cơ quan
và không là gì khác, đang vận hành, trống rỗng và bất động.
*
Thành công (với tâm lí quy ngã) thật là tàn bạo dưới mọi khía cạnh, dù là chính
trị, tôn giáo, nghệ thuật, kinh tài… Thành công đưa đến cứng rắn.
*
Chứng nghiệm về bản thể là đỉnh cao của cường lực, của nhạy cảm. Đây là vẻ đẹp
vượt trên ngôn ngữ và cảm thức.
* Bận
rộn, tuy vậy áp lực và căng thẳng vẫn còn đến trưa.
Dù
những hành động cần thiết trong cuộc sống hằng ngày có ra sao đi nữa, thì va
chạm và biến động mà cuộc sống đã gieo rắc không nên để lại dấu vết phía sau
chúng ta. Chính những dấu vết này tạo ra bản ngã, cá tính, củng cố dần theo
dòng đời, và lập thành bức tường hầu như không vượt qua nổi.
* Tỉnh
giấc nửa đêm với cảm thức về một sức lực bao la, vô cùng tận. Không phải là sức
lực tập trung chung quanh dục vọng hoặc ý muốn, mà là sức lực hiện diện khắp
sông núi cây cỏ.
Hành
động của con người là thực hành sự chọn lựa, thực hành theo ý muốn; hành động
này bao gồm xung đột và đối kháng, từ đó sinh đau khổ. Hành động đó phát xuất
từ một nguyên nhân (tâm lí), một động lực, do đó là phản ứng. Nhưng hành động
hiện khởi từ sức lực vô ngã thì tự do, thoát khỏi mọi nguyên nhân, động lực; do
đó sức lực này vô cùng tận, là bản thể.
* Chân
lí không thể nào chính xác, vì cái gì có thể đo lường được thì không phải là
chân lí. Chỉ có cái gì không sống động mới có thể đo lường được, chiều cao của
nó mới có thể tìm bắt được.
* Sống
không phải là trút bỏ hết kinh nghiệm, nhưng không có sự sống khi đất não dày
đặc dây mơ rễ má. Khiêm cung không phải là loại bỏ có ý thức cái đã biết, sự
loại bỏ này là lòng kiêu ngạo của sự thành tựu; khiêm cung là cái bất tri tuyệt
đối, tức là chết đi. Sợ chết chỉ có trong cái đã biết, chứ không phải trong cái
ta không biết. Không có sợ hãi đối với cái bất tri; sợ hãi chỉ có khi cái đã
biết thay đổi, chấm dứt.
* Mọi
hệ thống đều không tránh khỏi khuôn đúc tư tưởng theo một mẫu mực, và chủ nghĩa
xu thời sẽ hủy diệt sự bừng nở của thiền định. (…) Không có tự do sẽ không có
tự tri và không tự tri tức là không phải thiền định.
*
Tâm thái một mình là rỗng rang; trong ngọn lửa Không này, tâm trở về tươi
trẻ và an nhiên. Và chỉ có tính an nhiên này mới có thể nhận được cái phi thời
gian, cái mới mẻ không ngừng tự chết đi. Sự chết đi chính là sinh tạo. Không có
tình yêu thì không có sự chết đi.
* Đời
sống toàn thể bao hàm cái chia chẻ vụn vặt, nhưng cái chia chẻ này sẽ không bao
giờ hiểu được cái toàn thể.
* Kiến
thức ngăn ngại khám phá. Kiến thức luôn luôn bắt nguồn từ thời gian (tâm lí),
từ quá khứ, không bao giờ mang lại tự do. Nhưng kiến thức cần thiết cho hành
động, cho tư tưởng; không hành động thì không thể có hiện hữu. Nhưng dù hiền
triết, chân chính và cao thượng đến đâu, hành động sẽ không đưa đến chân lí.
Không có con đường dẫn đến chân lí.
*
Chính sự quan sát tiến trình của tư tưởng, của thời gian (tâm lí) và nỗi sợ
hãi, rõ biết toàn diện tiến trình này, chứ không phải chỉ một ý tưởng hoặc một
định thức tri thức, sẽ chấm dứt được sợ hãi, trên mặt ý thức lẫn tiềm thức. Tự
tri là tỉnh thức và là chấm dứt sợ hãi (tâm lí).
* Sợ
hãi nội tâm sẽ biến nhu cầu về an toàn ngoại giới thành một bài toán về giai cấp,
về uy tín, về quyền lực, và hậu quả là có đấu tranh tàn bạo.
* Từ
bỏ là nhìn thấy sự thật như thị, sai lầm như thị và cái chân thật trong cái sai
lầm. Đó là một hành vi chứ không phải một ý tưởng.
* Từ
bỏ thời gian (tâm lí) chính là bản chất của cái phi thời gian.
* Thức
dậy, tuy còn ngái ngủ, nhận thức được tiến trình kéo dài về đêm, và hơn thế nữa
phép lành khai mở. Có cảm thức tác động lên con người. Thần lực đó, sức mạnh
đó, ra khỏi và tuôn trào ra ngoài, như một thác nước từ đất phun vọt lên qua
những mõ
m
đá. Trong mọi sự này, hạnh phúc lạ thường khôn tả, một sự xuất thần không liên
quan gì đến tư tưởng, đến cảm thức.
*
Trong ánh chớp tuệ quán này sẽ phát sinh một tri giác mới mẻ.
* Tâm
trí tịch lặng và rất tỉnh sáng. Tràn đầy cả đêm cái vô lượng vô biên đó, và kèm
theo là thánh phúc.
* Im
lặng này là cái Không, từ đó tuôn chảy và cũng từ đó phát xuất sự hiện hữu của
vạn vật. Lặng im này là cái bất tri. (…).
Buổi
sáng tươi trẻ đến đỗi các ngôi sao vẫn luôn sinh động và lấp lánh. Bình minh
hãy còn lâu; tất cả đều yên tĩnh một cách lạ lùng, ngay cả thác nước ầm ĩ cũng
câm nín, và những ngọn đồi cũng lặng lẽ.
* Nó
theo chúng tôi chí đến giờ đi ngủ và duy trì thành tiếng rì rào suốt đêm. Điều
này không thuộc phạm vi kinh nghiệm, nó chỉ ở đó một cách giản dị, bằng một sức
mạnh dữ dội, một phép lành.
* Tâm
trong tính toàn thể bao trùm cả trí óc, tư tưởng của nó, cảm thức của nó, đang
rỗng rang; và từ cái rỗng rang đó, năng lực càng lúc càng thâm sâu, lan rộng,
vô lượng. Bởi vì mọi so sánh, mọi lượng giá đều xuất xứ từ tư tưởng tức là thời
gian. “Bờ bên kia” là tâm phi thời gian, là hơi thở của chân chất an nhiên và
của cái bao la vô tận. Ngôn từ không phải là thực tại; chúng chỉ là một phương
tiện truyền thông chứ không phải là cái chân chất an nhiên, cái vô lượng vô
biên. Cái trống rỗng là cái một mình.
* Chỉ
có một chuyển động duy nhất trong đời sống, bên ngoài lẫn bên trong, không thể
chia chẻ được, dù cho có phân biệt. Phân biệt làm cho số đông người chạy theo
chuyển động bên ngoài của kiến thức, của ý tưởng, của tín ngưỡng, của quyền
hành, an toàn, thịnh vượng, và cứ tiếp nối như thế. Ngược lại, có người lại bám
chặt vào một đời sống mạo xưng là nội tâm, thành lập từ ảo ảnh, hi vọng, khát
vọng, tĩnh lặng, xung đột và thất vọng. Chuyển động, vì là phản ứng, nên xung
chướng với đời sống bên ngoài. Như vậy có đối kháng, tiếp theo là đau khổ, sợ
hãi và trốn chạy.
Chỉ có
một chuyển động duy nhất bên ngoài lẫn bên trong. Hiểu biết về bên ngoài, không
xung đối cũng không kháng nghịch thì chuyển động thật sự của bên trong bắt đầu.
Xung đột đã loại trừ, và tuy bén nhạy nhưng ngay đỉnh cao của nhạy cảm, trí óc
vẫn đạt được tịch lặng. Chỉ ngay lúc đó, chuyển động nội tâm mới trở nên thật
sự và có ý nghĩa.
Từ
chuyển động này phát sinh lòng quảng đại, lòng từ bi không bắt nguồn từ lí trí
(suy luận), cũng không phải từ sự từ bỏ có suy nghĩ cân nhắc.