Năm Sửu (2021) Nói Chuyện Trâu - Nguyễn Châu
Trâu là con vật tượng hình của Cung thứ Hai trên hoàng đạo Trung Hoa, gọi là SỬU, tiếp theo sau con Chuột gọi là TÝ.Trâu tiếng Trung Hoa là Ngưu (niu), chỉ thị con vật khoẻ mạnh kéo cày và làm những việc nặng nhọc.
Ngày xưa, người Tàu không ăn thịt Trâu vì nó là con vật cần thiết cho nông nghiệp. Ngay cả bây giờ, nhiều người Trung Hoa vẫn cho rằng giết và ăn thịt một sinh vật đã giúp đỡ con người trong cày bừa và thu hoạch mùa màng là một hành vi vô đạo đức, theo họ con trâu xứng đáng được biết ơn. Dường như, thịt trâu trở thành điều cấm kỵ tại Trung Hoa cũng đã du nhập vào đây theo đạo Phật. Ðã có một vài vị Hoàng đế thời Trung cổ đã ra sắc lệnh cấm giết và ăn thịt trâu, bò. Nhiều sắc lệnh tương tự nhưng nghiêm ngặt hơn đã được ban hành tại Nhật Bản. Tại Nam Trung Hoa, lại có tục thờ cúng loài bò hoặc trâu nước, nhưng không có liên quan gì đến giáo lý nhà Phật cả.
TRÂU TRONG TƯƠNG QUAN VŨ TRỤ VÀ NHÂN SINH
Trong lịch sử Trung Hoa, LỊCH NĂM THÁNG đã thay đổi 03 (ba) lần theo suy luận về các tương quan vũ trụ với sinh hoạt của loài người. Cuốn NIÊN LỊCH đầu tiên, tháng ĐẦU NĂM là TÝ (tượng hình là con CHUỘT), cuốn NIÊN LỊCH thứ hai, tháng ĐẦU NĂM là SỬU (con TRÂU) và cuốn NIÊN LỊCH thứ ba hiện nay, tháng ĐẦU NĂM là DẨN (con CỌP).
Sách “Hoàng cực kinh thế” viết:
- Trời mở hội ở TÝ
- Ðất hình thành ở SỬU
- Người xuất phát ở DẦN
Do đó, lịch sử Trung Hoa ghi nhận có sự
thay đổi ngày Tết, tức là ngày Ðầu Năm qua các thời đại:
- Ðời vua Hoàng Ðế (1697 trước Công Nguyên)
dân Trung Hoa ăn tết vào ngày đầu của tháng Tý (tức mồng một tháng 11 âm lịch
bây giờ). Tý là thời điểm Dương khí bắt đầu trổi dậy sau những tháng ngày cực
Âm của mùa Ðông. Lấy tháng Tý làm đầu năm, tức là dựa vào thiên văn, thiên về
sự khai mở của TRỜI.
- Ðời vua Nghiêu (2356-2255 B.C.), vua
Thuấn (2255-2205) chọn tiết Vũ Thuỷ để tính tháng đầu năm, đó là tháng SỬU (nay
là tháng 12). Có lẽ vì đây là thời đại thịnh trị,
nông nghiệp vững vàng, bốn phương no ấm nhờ “Phong hoà Vũ thuận.” (Dựa vào Sự
Khai mở của Ðất)
- Ðến đời nhà Hạ (2205-1766 B.C.) người
ta chọn tháng Dần làm tháng đầu năm và ngày Nguyên Ðán là ngày mồng một tháng
Giêng Âm lịch. (Dựa vào sự xuất phát của Người).
Trời, Đất và Người...triết học Đông Phương gọi là "Tam Tài" tức là "ba phạm trù" ba giá trị hữu dụng.
Như vậy TRÂU liên kết với ÐẤT, một trong
tam tài THIÊN-ÐỊA-NHÂN (Trời-Ðất-Người). Có lẽ "CON SỐ BA" tất yếu
này là khởi đầu của mọi việc trên địa cầu và trong cuộc sống của vạn vật. Cho
nên người ta thường dùng con số "3" để ra lệnh, để định đoạt một sự
việc nào đó trong cuộc sống. "Một, Hai, Ba" - One, Two, Three - thành
ra "Oán-Tù-Tì"...Và quy uớc "Bất Quá Tam" đã ra đời.
Con số "3" là thế vững vàng nhất (ba ông táo/ kiềng ba chân...) Trong Toán Học, ba điểm xác định một mặt phẳng...
Trong truyền thuyết về "12 con giáp", Tý tượng hình là Chuột là con vật nhỏ bé nhất, so với SỬU tượng hình là Trâu, to hơn cả ngàn lần.
Sách "Hoàng Cực Kinh Thế" cho
rằng SỬU là thời điểm đất hình thành, nên trâu có duyên nghiệp sâu dày với Ðất!
Có thể nói Chuột là mô hình cực tiểu và trâu là mô hình cực đại. Chuột nhanh, lẹ, ranh mãnh và “rất thiêng”, trong lúc trâu chậm chạp, hiền lành, cần cù...nhẫn nại.
Tháng đầu năm mới thuộc tiết Vũ Thủy
(mưa xuân). Tiết này có sao Thiên Ðình phụ tinh của chòm Vierge (Virgo), lịch
sử ghi rằng thời các vua Nghiêu, vua Thuấn trong “tháng đầu năm vua đưa cày lên
long xa, dẫn các công khanh, các đại phu, các chư hầu... thân chinh ra cày tại
Tịch điền.”
Tại Việt Nam, Lễ Tịch Điền có từ thời
vua Lê Đại Hành. Mùa xuân năm Đinh Hợi (987 - cách nay 1034 năm) vua đã chọn vùng Đọi Sơn là
đất thiêng để cử hành Lễ Tịch Điền, cày luống cày đầu năm với ý hướng khuyến
khích thần dân và con cháu chăm lo nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, hoa màu để
được ấm no. Từ đó, các triều đại kế tiếp đều làm Lễ Tịch Điền hàng năm.
Dưới thời Nhà Nguyễn, vua Minh Mạng ban
Dụ gọi Tịch Điền (Vua đích thân cày ruộng) "thực là chính sự quan trọng
của các vương hầu". Duyệt lại các nghi thức Tịch Điền thời Nhà Trần, Nhà
Lê, vua Minh Mạng nhận thấy "nghi lễ phần nhiều giản lược". Do đó,
năm Minh Mạng thứ 9 (1828/ Mậu Tý), vua giao cho Bộ Lễ soạn thảo các điển chế
của Lễ Tịch Điền để làm thành thông lệ lâu dài.
Tại Kinh Đô Huế (thời bấy giờ), đời vua
Gia Long, Ruộng Tịch Điền đươc chỉ định tại hai phường Hòa Thái và Ngưỡng Trị
trong Kinh thành, đến năm Minh Mạng thứ 9, chuyển đến hai phường An Trạch và
Hậu Sinh.
Theo điển chế Minh Mạng, Lễ Tịch Điền cử
hành vào tháng 5 âm lịch, gọi là tháng Trọng Hạ, kéo dài 5 ngày. Ngày giờ do Bộ
Lễ xem xét và tâu vua từ cuối tháng tư.
Vào ngày cử hành lễ: từ Canh Năm (tức
rạng sáng), ba hồi trống vang dội. Trâu vàng, trâu đen, các kỳ lão nông trang
phục giống nhau, các nông cụ như cày, bừa mỗi loại 6 cái tập trung tại vị trí
đã định. Đoàn Ca sinh gồm 14 người cất tiếng hát bài ca về lúa cùng với 8 nhạc
sinh, 30 người cầm cờ ngũ sắc dàn hàng hai bên sở ruộng Tịch Điền.
Khi quan viên Lễ Bộ tâu "Bên Ngoài
đã xong" vua liền đội mũ cữu long, mặc hoàng bào, thắt đai ngọc chờ thị vệ
đưa kiệu tới rước ra đàn sở. Làm lễ ở Đàn Tế xong vua được rước đến điện Cụ Phục để thay y phục
chuẩn bị xuống ruộng cày. Khi nghe xướng "Xin Vua làm lễ ruộng" Vua
bước tới chỗ ruộng cày. mặt hướng về phía Nam. Một quan Bộ Hộ dâng cày, Phủ
Doãn Thừa Thiên dâng roi. Vua, tay phải cầm cày, tay trái cầm roi, bắt đầu cày
ruộng. Hai kỳ lão nông phụ dắt trâu và hai kỳ lão nông phụ đỡ cày. Vua cày ba
lượt giữa tiếng nhạc âm vang. Sau vua là lễ cày của các hoàng tử, hoàng thân,
quan viên văn võ và nông phu xã Phú Xuân. Hoàng tử và hoàng thân cày 5 lượt, văn
võ bá quan cày 9 lượt. Cày xong đến trước đàn lạy 5 lạy.
Sau nghi lễ, trâu vàng và trâu đen được
phủ Thừa Thiên tiếp nhận rồi giao cho nông dân xã Phú Xuân chăn nuôi. Roi, cày
và thúng thóc giao cho Võ Khố cất giữ. Lúa gieo ở ruộng Tịch Điền giao cho xã Phú
Xuân chăm bón, đến khi lúa chín, quan Phủ giám sát việc thu hoạch. Phủ Thừa
Thiên phối hợp với Bộ Hộ chọn giống trong số lúa này cho lễ Tịch Điền năm kế
tiếp. Số còn lại xay thành gạo trữ lại để cúng tế các miếu và tế Trời ở Đàn Nam
Giao.
Vua Minh Mạng đã làm lễ Xuống Đồng Cày Ruộng rất trọng thể. Sau nghi thức tế Trời cầu Phong Hòa Vũ Thuận, Vua bước xuống ruộng dắt trâu cày luống cày đầu năm...
Con trâu trở thành biểu tượng cho mùa Xuân của ruộng đồng, thời điểm khởi đầu công việc đồng áng, gieo trồng, nông dân mở hội cày ruộng và tế lễ.
SINH VẬT HỌC VỀ TRÂU
Trâu có nhiều mầu da. Ða số có da màu
đen (xanh đen, gọi là trâu đen) và một số có da màu trắng hồng (gọi là trâu
bạc, hoặc trâu trắng).
Về sinh vật học, Trâu là loài thuộc họ
có “móng guốc”. Trâu tiếng Mỹ là “Buffalo”, Pháp là “Buffle” là tiếng gọi chung
một số con bò rừng hoang dã to lớn. Cái tên này đầu tiên được dùng cho loài
trâu nước da màu đen tại Ấn Ðộ. Nó mang cái tên Trâu nước bởi vì nó thích trầm
mình trong nước mỗi lần nhiều giờ. Trong tình trạng hoang dã, trâu nước có thế
nguy hiểm cho con người.
Trâu rừng đã ngày càng trở nên hiếm hoi,
bởi vì loài người đã phá rừng, đốt rẫy để lấy đất trồng trọt và săn bắt rồi
thuần hoá chúng. Trâu nước được nuôi để kéo cày, kéo gỗ, kéo xe tại hầu hết các
vùng ấm áp ở Á Châu và Phi Châu. Tại Phi-Luật-Tân, có giống trâu nước nhỏ gọi
là “carabao”. Ấn Ðộ là nước nuôi nhiều trâu nước nhất thế giới.
Tại
Mỹ, trâu đực (bulls) thường cao từ 5 đến
6.5 feet (tức khoảng 1.5 đến 2 mét), đầu trâu có hai cái sừng cong, có thể dài
tới 35 inches (89 centimet). Một con trâu đực lớn hết cỡ có thể dài từ 10 tới
12.5 feet (tức từ 3 dến 3 mét 80) tính từ đầu mũi tới túm đuôi. Trâu đực thường
cân nặng từ 1,600 đến 2,000 pounds (726 đến 910 kilôgam. Con lớn nhất có thể nặng
tới 3,000 pounds. Trâu cái nhỏ hơn trâu đực và thường cân nặng khoảng 900
pounds (410 kilôgam).
Trâu đen hoang dã tại các khu rừng rậm ở
đảo Mindoro, Phi-Luật-Tân, gọi là “tamarau”. Giống trâu này chỉ cao 3.5 feet
(107 centimét). Một giống khác gọi là “anoa” cũng là một loại trâu rừng nhỏ hơn
sống tại đảo Sulawesi của Nam Dương. Ðây là hai
giống rất hiếm vì đang bị đe doạ tuyệt chủng.
Tại
Nam Phi, có giống trâu hoang gọi là Cape
buffalo, màu đen, to lớn và có tính khí giống như trâu Ấn Ðộ với nhiều thói quen,
nhưng chúng không bao giờ được thuần hoá cả. Ở vùng rừng Tây và Trung Phi cũng
có một giống trâu hoang tương tự như Cape buffalo. Tại vùng Congo cũng có một
giống trâu tamarau, chỉ cao khoảng 3 feet rưỡi (107 centimét).
Trâu Ấn Ðộ là giống đã giúp cho việc
trồng lúa với quy mô lớn tại Á Châu. Con vật mạnh mẽ này có thể cày ở chỗ bùn
ngập tới đầu gối. Giống trâu này cũng được đưa đến nhiều nơi trên thế giới như
Úc, Ba-Tây, Ai-Cập, Hung Gia Lợi, Nam Dương, Ý, Phi-Luật-Tân, Tây Ban Nha và
Hoa Kỳ. Thức ăn chính của Trâu là cỏ, hoặc rơm khô.
Da trâu bền và dày, là một vật liệu tốt
cho các dụng cụ bằng da thuộc. Sữa trâu Ấn Ðộ nhiều chất dinh dưỡng. Sữa trâu
nuôi trong chuồng chứa nhiều chất béo hơn sữa. Tại Ấn Ðộ người ta dùng sữa này
để làm bơ lỏng (liquid butter).
Sinh vật học xếp trâu nước vào họ Bovinae, thuộc gia đình Bovidae của giống Buffalo và bison. Trâu nước Ấn Ðộ là giống Bubalus bubalis. Giống trâu Cape buffalo của Phi Châu là loại Syncerus caffer, và giống ở Congo thuộc loại S. nanus. Giống bison Mỹ là loại Bison bison, và tại Âu Châu là giống Bison bonasus.
TRÂU TRONG SINH HOẠT CỦA NÔNG DÂN VIỆT
NAM
Việt Nam là một nước nông nghiệp, từ
ngàn xưa đã biết dùng trâu để cày đất trồng lúa và làm các công việc nặng nhọc
khác. Trâu đã trở thành một con vật rất quen thuộc với người dân nông thôn và
của hầu hết người Việt Nam. Hình ảnh con trâu đã gắn liền với hình ảnh làng
quê, với ruộng lúa, với luỹ tre xanh, với dòng sông...
Trâu đã được nông dân xem như một người
bạn đồng lao cộng tác, luôn luôn sát cánh bên nhau:
“Trâu
ơi, ta bảo trâu này
Trâu
ra ngoài ruộng, trâu cày với ta
Cấy
cày vốn nghiệp nông gia.
Ta
đây, trâu đó, ai mà quản công.
Bao
giờ cây lúa còn bông
Thì
còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.”
Nói thì thế, nhưng sự thật thì nhiều khi
nông dân Việt Nam không đối xử với trâu một cách công bằng và sòng phẳng. Hãy
nghe lời than vãn của trâu trong tác phẩm “Lục Súc Tranh Công” để có thể hiểu
rõ công lao của trâu đối với sự nuôi sống của con người, nhất là người Việt
Nam.
“Trâu
mỏi nhọc, trâu liền than thở:
“Một
mình trâu ghe nỗi gian nan,
Lóng
canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ
đã gọi thằng chăn vội vã.
Dạy
rằng: “Ðuổi trâu ra thảo dã
Cho
nó ăn ba miếng đỡ lòng.”
Chưa
bao lâu thoắt đã rạng đông
Vừa
đến buổi cày bừa, bua việc.
Trước
cổ đã mang hai cái niệt,
Sau
đuôi thêm kéo một cái cày;
Miệng
đã dàm, mũi lại dòng dây.
Trên
lưng ruồi bâu, dưới chân đĩa cắn.
Trâu
mệt đã thở dài, thở vắn,
Người
còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.
Liệu
vừa đứng bóng mới thôi,
Ðói
hoà mệt, bước khôn dài bước.
Ai
thong thả, trâu nào ben đặng?
Trâu
nhọc nhằn ai dễ thế cho?
Cày
ruộng sâu ruộng cạn cho no
Lại
vườn đậu vườn mè khiến trở.
Làm
không kịp thở,
Ăn
chẳng kịp nhai,
Tắm
mưa trải gió chi nài,
Ðạp
tuyết, dày sương bao sá!
Có
trâu, sẵn tằm tơ lúa má,
Không
trâu, không hoa quả đậu mè.
Lúa
gặt cắt lên đã có trâu xe,
Lúa
chất trữ lại để dành trâu đạp.
Từ
tháng giêng cho đến tháng chạp.
Kể
xuân, hè nhẫn đến thu đông,
Việc
cày bừa nông vụ vừa xong,
Lại
xe gỗ, dầm công liên khói.
Bất
luận xe rào, xe củi,
Nhẫn
đến loài phân bổi, tranh che,
Hễ
bao nhiêu, nhất thiết của chi
Thì
đã phú mặc trâu chuyên chở.
Bao
quản núi non hiểm trở,
Chi
nài khe suối dầm dề
Cong
lưng chịu việc nặng nề,
Cay
đắng những lời dức lác!
Ăn
thì ăn những rơm khô, cỏ rác,
Ở
quản chi ràn lấm, tráp nè.
Trâu
dựng nên nông nọ, nỗi kia
Trâu
làm đặng căn trên, bồi dưới.
Nghĩ
suy lại công trâu cho phải
Lẽ
cho trâu thao lụa mặc dày,
Không
chi thì quần vải, dãi gai,
Không
chi thì khố lưỡi cày cũng khá.
Ăn
cho phải những cơm với cá,
Không
nữa thì rau cháo cũng nên.
Ðến
mai sau già cả sức hèn,
Cũng
bảo dưỡng bổ công lao lý.
Khi
mạng sống chẳng đơm chẳng tế;
Lẽ
sinh cư tử táng mới ưng.
Thuở
sống đà không dạ yêu thương
Khi
thác lại đoạn tình siêu độ.
Bảo
nhau sắm con dao, cái rổ,
Khiến
nhau vơ mớ củi, nắm nè.
Rằng
“Trâu này là cốt Phật xưa kia
Phát
đình liệu cho hồn thăng thiên giái.
Còn
hình tích giống chi để lại.
Người
người đều bàn bạc với nhau.
Kẻ
thì rằng: Tôi lãnh cái đầu,
Người
lại nói: Phần tôi cái nọng,
Kẻ
giành lòng bóng ép gối mà kê,
Còn
sừng đem về ép thoi, làm lược.
Kẻ
thì chuốt hoa tai, làm ngạt quạt,
Người
lại tiện chén rượu, bầu liêu.
Làm
tù và mà thổi cũng kêu,
Tiện
con cờ mà đánh cũng tốt,
Kẻ
thì làm cái mõ, cái hộp,
Người
lại tỉa cán quạt, cán dao.
Còn
giò chia nhau
Làm
nham, làm thấu.
Trâu
gẫm lại loài cầm thú
Phận
sao chịu vậy dám nài!”
(trích Lục Súc Tranh Công).
Xem ra thì hầu hết nông dân Việt Nam từ xưa tới nay đều bóc lột sức lao động của trâu đến tận cùng. Ðến khi trâu mất sức lao động, thì họ lại tính toán tận dụng tất cả những gì có thể dùng được nơi trâu từ thịt da cho đến sừng xương cốt. Dường như họ không có tình cảm biết ơn trâu như nông dân và vua chúa tại một số quốc gia Á Châu khác.
Ðến thời Cộng sản cai trị thì thân phận
trâu càng khốn cùng thêm, trong lúc đời sống của nông dân cũng chẳng khá hơn
được chút nào. Người dân không có thịt để ăn, nhưng trâu lại là “đầu cơ nghiệp”
của nhiều hợp tác xã trồng lúa, bị quản lý một cách chặt chẽ. Ðể thoả mãn nhu
cầu thịt, nông dân mới bày mưu làm cho trâu bị thương, mất khả năng cày và kéo,
để có thể giết mà ăn thịt.
Ngoài ra, vào thập niên 1980, trong âm
mưu phá hoại sản xuất nông nghiệp của Cộng sản Việt Nam, Cộng sản Trung quốc
cho người đến biên giới gạ mua sừng và móng chân trâu cày với giá cao, tương
đương với giá mua một con trâu mới. Thế là trâu cứ lần lượt bị tai nạn, bị
thương tật, và đương nhiên là bị giết để ăn thịt, nông dân chỉ cần bán qua
Trung cộng bốn chân móng và bộ sừng là gần đủ số tiền nộp đền cho hợp tác xã đi
tậu trâu mới.
Phải chăng vì sự vô ơn bội nghĩa đối với
công lao của trâu mà phần đông nông dân Việt Nam, nhất là tại miền Bắc Xã Hội
Chủ Nghĩa cứ mãi mãi sống trong cảnh nghèo nàn, khốn khó?
Ðến thời kỳ Cộng sản Việt Nam chủ trương cơ giới hoá nông nghiệp, nông dân miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa đã bị quả báo tội vô ơn với trâu đen. Tục ngữ mới tại miền Bắc Việt Nam, trước năm 1975, có câu “Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà”. Ðây là tình trạng eo xách của đoàn máy cày sơn màu đỏ đối với các hợp tác xã cần cày ruộng cho kịp thời vụ. Khi đoàn máy cày được phái đến công tác tại một huyện, một xã nào đó, nếu quan chức hợp tác xã không biết thói quen “trâu đỏ ăn gà” thì đoàn máy sẽ nằm ụ lại, vì lý do trục trặc kỹ thuật, chưa thể tiến hành công tác cày được. Nhưng sau khi đã có gà có xôi, có rượu, thì đoàn máy cày hết trục trặc ngay. Sự kiện này xã hội cộng sản Việt Nam gọi là “chuyện thường ngày ở huyện”.
LỄ TẠ ƠN TRÂU - ĐỀN THỜ TRÂU
Nhiều dân tộc đã lập đền thờ Trâu. Hiện
còn tồn tại một số đền thờ Trâu dành cho “Trâu Vàng” (bovina communis).
Trong ngày Síp xí, các gia đình người Thái đồng loạt làm ba cuộc lễ liên tiếp: thứ nhất là lễ cúng tổ tiên và những người quá cố trong gia đình; kế đến là Lễ cúng Bà Mụ (tức là vị thần đã “nặn” đúc ra thân thể của con người trong bào thai) và những người tứ cố vô thân hồn bơ vơ không ai hương khói, và sau cùng là Lễ Tạ Ơn Trâu.
Theo truyền tụng thì phong tục Tạ Ơn
Trâu của người Thái đã có từ thời xa xưa và được duy trì nguyên vẹn đến ngày
nay. Nghi thức Lễ Tạ Ơn Trâu gồm có một mâm cỗ với một con gà luộc, một đĩa
xôi, một chai rượu, một đĩa trầu cau và một bó cỏ non. Thịt gà được chặt nhỏ,
gói cùng với xôi trong mớ cỏ non. Những gói cỏ, xôi, gà ấy được xếp vào một cái
đĩa lớn, vẫy lên những giọt rượu...
Một vị đứng làm chủ lễ, khăn áo chỉnh
tề, bước ra thắp nhang và làm lễ Tạ Ơn Trâu. Lễ bắt đầu tiến hành lần lượt với
từng con trâu. Con đầu đàn được lễ trước và con ít tuổi lễ sau cùng. Trâu đầu
đàn người Thái gọi là “Quái tổn lang” có nghĩa là trâu chủ gầm. Mâm cỗ được
bưng đến trước từng con trâu được tạ ơn.
Bài văn cúng tạ ơn trâu đại ý như sau:
“Ơ
này trâu ơi
Mưa
rơi trâu kéo cày
Trời
sấm trâu kéo ruộng
Ðeo
ách khắp thửa trên
Kéo
bừa khắp thửa dưới
Thương
trâu hồn to vía lớn
Có
gà lớn bằng con công
Gà
to bằng con ngỗng
Sắp
mâm cỗ mời trâu ăn
Có
chai rượu thơm
Rót
ra mời trâu uống...”
Bài Tạ ơn trâu kết thúc bằng lời cầu
chúc:
“...Gom
của về với chủ
Tận
già trâu đừng chết
Trâu
sinh sôi đầy đàn
Trâu
sinh nở đầy gầm nhà.”
Sau khi đọc văn cúng, chủ nhà tự tay đút cho trâu ăn gói cỏ non có xôi và thịt gà, rồi thả trâu ra rừng. Mấy ngày sau lễ Tạ Ơn Trâu, con người kiêng nặng lời với trâu, kiêng đánh trâu và bắt trâu làm việc nặng. (Theo Báo Hoà Bình 06-06-2007).
Nhiều bộ lạc ở Ấn Ðộ, trong điệu múa mặt
trời, họ đặt một cái đầu trâu trên một cột trụ ở chính giữa và các chiến binh
múa vòng quanh, tự hành hạ mình để ca ngợi quyền năng của mặt trời. Một cuộc
nhẩy múa thành công chẳng những nói lên nói lên sự lão luyện của các chiến
binh, mà còn dự báo cho bộ lạc một mùa săn bắn tốt. Các đoàn thể quân sự quan
trông của Plains Indian đều được đặt tên theo trâu đực và dùng sừng trâu làm
huy hiệu. Con Nghé thiêng liêng trên bờ sông Oglala tại vùng Teton Sioux, là
biểu tượng của may mắn tài lộc của bộ tộc, theo truyền thuyết, nó đã được một
con trâu cái mang hình người ban cho họ. Các bộ lạc miền Tây, chỉ làm những cuộc
hành trình ngắn hạn đến Plains, để làm lễ vào mùa đông cầu may mắn cho các cuộc
săn bắn mùa hè.
Tại vùng Taos, New Mexico, một đám đông đàn ông, đội đầu trâu, lắc lư thân thể và lấy chân cào đất giống như trâu “bison”. Tại một số làng người da đỏ, hai hoặc nhiều người đàn ông mang mặt nạ hình đầu trâu, nhảy múa bên cạnh một người đàn bà, “người mẹ của trò chơi” được xem như là người đã đem những con thú đến cho người săn bắn.
TRUYỀN THUYẾT VỀ TRÂU
Ðể giải đáp thắc mắc tại sao con trâu
lại phải làm việc rất nặng nhọc và chịu đựng sự hành hạ quá mức của nông dân
như vậy mà không phản kháng, người ta đã đưa ra một truyền thuyết hoặc một
huyền thoại về trâu.
Thoại kể rằng: “Từ lúc mới tạo dựng trời
đất, loài người chưa có lúa, bắp để nuôi sống. Ngọc Hoàng Thượng Ðế liền sai
một vị quan trên Thiên đình xuống trần gian để giúp cho loài người. Vị quan này
được Thiên Triều giao cho hai cái bao, một cái đựng hạt giống lúa và ngũ cốc để
nuôi sống loài người, một bao đựng hạt giống cỏ để phủ mặt đất và nuôi súc vật
khác. Thiên Triều đã căn dặn phải gieo hạt lúa và ngũ cốc trước rồi sau đó mới
gieo giống cỏ.
Nhưng chẳng may vị quan Thiên Triều đã vì lơ đãng đã đem hạt giống cỏ gieo xuống trước, cỏ mọc rất nhanh, chẳng mấy chốc đã phủ gần hết mặt đất, vị quan mới vội vàng gieo giống lúa và ngũ cốc vào số đất ít ỏi còn lại. Thế là hạ giới không đủ lúa gạo và ngũ cốc để nuôi sống, lại phải lo nhổ cỏ đi để có đất trồng lúa, rất vất vả và khổ sở. Tiếng kêu than của dân gian đã lên thấu Thiên Ðình. Ngọc Hoàng Thượng Ðế cho điều tra sự thật và phạt vị quan lơ đãng đã làm sai lệnh Thiên Triều khiến dân gian cực khổ, thiếu thốn. Hình phạt là biến vị quan đó thành con trâu, đày xuống hạ giới với nhiệm vụ phải gặm cho hết cỏ và giúp loài người cày đất trồng lúa và ngũ cốc để chuộc tội. Hai cái sừng là dấu tích của cái mũ của thời làm quan trên Thiên Ðình.
CHUYỆN CON TRÂU VÀNG HỒ TÂY
Vào thời nhà Lý, ở thành Ðại La (nay là
Hà Nội) có một nhà sư pháp thuật cao cường, pháp danh là Không Lộ. Tương truyền
Sư Không Lộ là một vị thần Trời sai xuống trần gian để cứu giúp dân. Vào thời
đó, nước Nam đang thiếu các chất đồng và sắt, bao nhiêu vàng bạc đã bị người
phương Bắc vơ vét hết chở về Trung Hoa, sau nhiều thế kỷ cai trị.
Một hôm, Sư Không Lộ mang theo một cái
túi nhỏ, lên đường qua Trung Hoa với ý định dùng phép thuật để lấy lại một ít
kim loại đã bị cướp trước đây hiện đang để ở bên đó. Sư Không Lộ đã vào yết
kiến vua nhà Tống xin quyên một ít kim khí chỉ đựng đầy cái túi vải mà Sư mang
theo, nói là về đúc tượng Phật. Thấy cái túi nhỏ bé, vua Tống không ngần ngại,
liền sai quan coi kho đưa Sư Không Lộ vào tận nơi, cho tuỳ ý lấy vàng hoặc
đồng, miễn là chỉ đựng đầy cái túi mang theo mà thôi.
Vào đến cửa kho, Sư thấy một con trâu
đúc bằng vàng, to lớn hơn con trâu thật, đang đứng hiên ngang như để canh giữ
kho tàng của nhà vua. Ở gian giữa là kho chứa một số kim khí hiếm có, quý hơn
vàng, đó là đồng đen “mẹ đẻ của vàng”.
Sư Không Lộ dùng phép thuật mở cái túi
thần ra thu hết hơn phân nửa số đồng đen trong kho nhà Tống. Ông quan giữ kho
hoảng hốt trước phép thuật của nhà Sư, chặn lại, bắt trả số đồng đen. Sư Không
Lộ liền nhắc cho viên quan lời hứa của vua Tống là cho phép chọn bất cứ thứ nào
miễn là chỉ đựng trong cái túi mang theo. Viên quan đành cấp báo sự việc lên
nhà Vua. Vua Tống nổi giận, ra lệnh bắt chém nhà Sư nước Nam vì đã có thái độ
qua mặt Thiên triều. Nhờ có phép thuật, Sư Không Lộ nghe được ý của vua Tống,
vội vàng thoát ra khỏi kho, vượt qua hoàng thành, trực chỉ phương Nam. Sư không
thể đi nhanh vì số đồng đen khá nặng. Chỉ đi được mấy dặm đường thì đã nghe
tiếng người và ngựa đuổi theo. Sư Không Lộ bị một dòng sông chận lối, không có
thuyền bè, trong lúc quân binh nhà Tống đang lao tới gần và reo hò như sắp bắt
được nhà Sư.
Sư Không Lộ liền lấy chiếc nón tu lờ,
thả xuống sông, niệm thần chú hoá thành thuyền rồi mang túi kim khí nhẩy xuống,
trong chớp mắt đã qua bờ bên kia. Quân nhà Tống chứng kiến phép thuật của nhà
Sư, rút về tâu lên, vua Tống đành chịu thua.
Về đến nước Nam, Sư Không Lộ triệu tập
những người thợ rèn tài giỏi để đúc một cái chuông lớn bằng đồng đen đã lấy
được từ kho nhà Tống. Các tay thợ đã cố gắng nhưng không đúc được chuông theo ý
nhà Sư là có hình hoa sen hé nở và có âm thanh vang xa. Sư Không Lộ liền nghĩ
ra cách làm khuôn bằng đất sét, rồi nấu chẩy đồng đen đổ vào. Kết quả mỹ mãn.
Ngày khánh thành chuông, Sư Không Lộ cầm
chày đánh lên lần đầu tiên, tiếng chuông ngân và vang xa ngoài ngàn dặm. Con
trâu vàng trước kho nhà Tống bên Trung Hoa nghe tiếng chuông đồng đen, tưởng là
tiếng mẹ gọi, liền phóng mình chạy về phương Nam. Nhìn thấy con trâu vàng từ
Trung Hoa chạy đến, Sư Không Lộ vội ngừng đánh chuông, sợ rằng bao nhiêu vàng
từ phương Bắc nghe tiếng chuông đồng đen sẽ tuôn về Nam Việt hết, thì rất nguy
hiểm, Trung Hoa sẽ có cớ mà xua quân đánh chiếm nước Nam. Nghĩ thế nên Sư đã
lăn cái chuông xuống Hồ Tây. Chuông đồng đen kêu vang một lần cuối cùng trước
khi xuống nước, con trâu vàng cũng nhảy theo và cả hai chìm mất dưới đáy hồ.
Sư Không Lộ trở về Trời. Những người thợ
rèn dựng lên một ngôi đền thờ cạnh Hồ Tây để nhớ ơn vị tổ sư đã dạy cho họ cách
đúc đồng. Vua nhà Lý sắc phong Sư Không Lộ là “Thần tổ Nghề Ðúc Ðồng”.
Lời bàn: Chuyện Con Trâu Vàng Hồ Tây chỉ có mục đích nói lên sự kiện “nghề đúc đồng” đã có từ thời nhà Lý (thế kỷ thứ 13), không nói gì đến chuyện trâu cả. Truyện hoang đường, không có gì đặc sắc, với kết thúc là tất cả chuông trâu đều biến mất không con dấu vết gì. Chuyện kể chẳng qua là để thoả mãn tự ái dân tộc mà thôi.
ĐỀN KIM NGƯU - PHỦ TÂY HỒ
Tại Hà Nội, có di tích "Đền Ông và Phủ Bà". Theo dân
làng Tây Hồ, Đền Ông là đền thờ Ông Trâu Vàng tức Đền Kim Ngưu, Phủ Bà là Phủ
thờ Mẫu Liễu Hạnh. Sự tích Thần Trâu Vàng thờ tại Đền Kim Ngưu đã được một số
sách xưa ( Bắc Thành Địa Dư chí; Đại Nam Nhất Thống chí...) ghi lại. Tương
truyền rằng vào cuối đời Nhà Đường (Trung Hoa), Cao Biền, một nhà địa lý tài
giỏi thấy đất Giao Châu của người Việt là vùng linh thiêng có thể sinh ra nhiều
người kiệt xuất (địa linh nhân kiệt) chống lại Bắc triều. Vì vậy nên Cao Biền
đã tìm đến nhiều nơi ở Giao Châu để bí mật trấn yểm, cắt đứt long mạch... Một
hôm, Cao Biền đến vùng Duy Tiên (nay thuộc tỉnh Hà Nam) ra tay đào sông cắt đứt
long mạch núi Phục Tượng (Đọi Sơn). Thần núi Đọi Sơn hóa thành trâu vàng phóng
hào quang rực rỡ chạy dọc theo sông Hồng lên đến Đầm Xác Cáo (nay là hồ Tây)
rồi biến mất. Những bước chân trâu vàng chạy đất lún xuống thành sông, gọi là
sông Kim Ngưu, nơi trâu vàng biến mất là hồ Kim Ngưu (nay là hồ Tây).
Một thoại khác nói Cao Biền muốn đào núi Lan Kha (Từ Sơn, Bắc Ninh) thì bỗng một con trâu vàng từ trong núi lao ra chạy đến đầm Xác Cáo, rồi biến mất. Trâu chạy đến đâu đất lún thành sông, gọi là sông Kim Ngưu.
LỂ "TIẾN XUÂN NGƯU"
Vào thời Trung Hưng Nhà Lê (từ thế kỷ XVI đến XVII) tại Kinh đô
Thăng Long, hàng năm vào tháng Giêng âm lịch, sở Tư Thiên Giám tâu lên ngày
chính của tiết Lập Xuân và cả kiểu mẫu của Xuân Ngưu (tức Trâu Xuân). Vua giao
cho Bộ Công, rồi sai Cục Tượng ban làm tượng Xuân Ngưu bằng đất. Buổi chiều,
trước ngày Lập Xuân một ngày, Cục Tượng ban đưa tượng Trâu Xuân đến đàn tọa lạc
tịa phường Đông Hà. Tại đàn này, quan Phủ Doãn Thăng Long và các quan sở tại
hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức làm lễ. Xong lễ, dân phường Đông Hà rước Xuân
Ngưu đến đậu ở phường Hà Khẩu.
Đến ngày chính tiết, Xuân Ngưu được rước đưa vào Điện vua để cử
hành lễ Tiến Xuân Ngưu. Đoàn rước gồm kiệu Xuân Ngưu, theo sau là quan Phủ Doãn
và quan chức hai huyện, mỗi người cầm cành dâu đánh vào con trâu bằng đất.
Tại đàn làm lễ Tiến Xuân Ngưu, bá quan văn võ trong triều đã tề
tựu đông đủ. Lễ xong, quan Tư lễ giám bưng cái án để Xuân Ngưu từ nơi vua ngự,
đưa qua tiến ở Phủ Chúa Trịnh.
Theo phong tục, tháng Chạp là tháng Sửu (tượng hình con trâu) nên dân gian làn con trâu đất để át khí lạnh. Lễ Tiến Xuân Ngưu được thực hành theo ý nghĩa này. (Theo Bùi Thiết, Từ Điển Lễ Hội Việt Nam -NXB Văn Hóa -HaNoi 2000.)
TRÂU TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
Ảnh tượng con trâu đã xuất hiện khá nhiều trong ca dao, tục ngữ, thơ và văn xuôi. Trâu đã trở thành một đề tài phong phú khi người ta viết về nông thôn Việt Nam.
TRÂU TRONG CA DAO VÀ TỤC NGỮ
Ðối với nông dân Việt Nam, trâu là một phương
tiện hàng đầu. Có trâu rồi mới có thể gây dựng cuộc đời. Do đó, “tậu trâu” trở
thành vấn đề trọng đại nhất:
“Tậu
trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong
ba việc ấy lọ là khó thay.”
Bởi vì “Con trâu là đầu cơ nghiệp” cho
nên ngày xưa trâu được xem như một tiêu chuẩn để đánh giá giàu, nghèo trong xã
hội nông nghiệp.
“Ruộng sâu, trâu nái” là câu để chỉ
người khá giả trong làng, xóm. Một chàng nông dân đã khoe với người đẹp về gia
thế như sau:
“Nhà
anh chín đụn, mười trâu
Lại
thêm ao cá, bắc cầu rửa chân.”
Cơ nghiệp của nhà nông xưa nhờ vào sức
lực của trâu, vì vậy việc tậu trâu (tức mua trâu) đòi hỏi sự cẩn trọng. Nếu mua
lầm trâu xấu, kém khả năng cày kéo thì có nguy cơ thất bại trong sản xuất. Tục
ngữ có những câu dành cho việc chọn trâu:
-
Mua
trâu xem vó, lấy vợ xem nòi.
-
Mua
trâu lựa nái, mua gái chọn dòng.
- Trâu hoa tai, bò gai sừng.
-
Lang
đuôi thì bán, lang trán thì cày.
-
Ðầu
thanh, cao tiền, thấp hậu, chẳng tậu thì sao?
-
Cày
trâu loạn, bán trâu đồ.
Tóm lại, nông dân Việt Nam đã tích luỹ
được một số kinh nghiệm về tướng mạo của trâu để tiện việc lựa chọn trâu thích
hợp với nông vụ. Người hướng dẫn mua trâu thường xem khoang, xem khoáy trâu rất
kỹ lưỡng.
Ngoài ra, còn có nhiều câu mượn trâu để
nói về sinh hoạt và tâm tính của người, chẳng hạn:
-
Trâu
tìm cọc, chứ cọc không tìm trâu.
-
Trâu
chậm uống nước đục.
-
Trâu
tìm trâu, ngựa tìm ngựa.
-
Gái
mười bẩy, bẻ gãy sừng trâu, trai mười bẩy đâm thâu cột nhà.
-
Ăn
thuốc bán trâu, ăn trầu bán ruộng.
-
Trâu
quá xá, mạ quá thì
-
Muốn
làm giầu thì nuôi trâu nái, muốn lụn bại thì nuôi bồ câu.
-
Buộc
trâu đâu, nát rào đấy.
-
Trâu
gầy cũng tầy bò giống.
-
Trâu
he cũng bằng bỏ khoẻ.
-
Lộn
con toán, bán con trâu.
-
Lạc
đường theo chó, lạc ngõ theo trâu.
-
Trâu
đồng nào ăn cỏ đồng nấy.
-
Nước
giữa dòng, chê trong chê đục, Vũng trâu đầm hì hục khen ngon.
-
Sáng
tai họ, điếc tai cày.
-
Trâu
buôc thì ghét trâu ăn...
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.
Có lẽ vì trâu đã một thời có mặt thường
trực trong các gia đình nông dân, trên những thửa ruộng, những con đường làng,
trong các ao đầm hoặc trong các dòng sông quê hương Việt Nam. Ðối với hầu hết
người Việt Nam, ảnh tượng con trâu bên luỹ tre đã trở thành biểu tượng thân
thương của quê hương. Bài ca dao được biết đến nhiều nhất có lẽ là bài “tâm
tình” của nông dân với trâu, sau đây.
“Trâu
ơi, ta bảo trâu này
Trâu
ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
Cấy
cày vốn nghiệp nông gia,
Ta
đây, trâu đó, ai mà quản công.
Bao
giờ cây lúa còn bôn,g
Thì
còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.”
Mối tương quan thân thiết này đã làm cho
trâu trở thành một phần tử của gia đình nông dân, cùng chung sức làm lụng bên
nhau:
“Trên
đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng
cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Về thơ, thì bài liên quan đến trâu được
in vào sách Quốc Văn giáo khoa, tiểu học, bài “Em Bé Quê” được biết đến nhiều
nhất và đã được Phạm Duy phổ nhạc:
“Ai
bảo chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng lắm chứ.
Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao
Vui thú không quên học đâu.
Nằm đồi non gió mát
Cất tiếng theo tiếng lúa đang reo
Em đánh vần thật mau.”
TRÂU
TRONG THƠ, VĂN
Theo Bàng Bá Lân trong Hương Hoa Ðất
Nước thì bài Em Bé Quê như sau đây:
“Ai bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu
sướng lắm chứ! Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa,
ngất-nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông
bướm lượn trên đám cỏ...”
Thơ xưa thì Lục Súc Tranh Công (tác giả
khuyết danh) đã mở đầu bằng lời than thở của trâu (đã trích ở phần trên). Cụ
Nguyễn Khuyến nhắc đến trâu khi tả buổi trưa hè:
“Trâu
già nấp bụi phì hơi nắng,
Chó
nhỏ ven ao sủa tiếng người.”
Bà
Huyện Thanh Quan trong bài "Chiều Hôm Nhớ Nhà" có câu:
"Gác
mái ngư ông về viễn phố
Gõ
sừng mục tử lại cô thôn..."
Tả cảnh mục đồng hồn nhiên cưỡi trâu về thôn xa...
Thơ hiện đại có những câu rất đẹp liên
quan với ảnh tượng trâu:
“Dưới
gốc đa già, trong vũng bóng
Nằm
mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai...”
Hoặc:
“Khói
chiều nhuốm bạc đầu cau
Ðường
quê thưa thớt tiếng trâu gọi đàn.” ( Bàng Bá Lân
- Chiều quê).
Hoặc:
“Ngõ
tre lối cũ ta về
Thăm
cô yếm lụa hái chè trên nương.
Người
đi cây nhớ hoa vàng
Ðàn
trâu gặm nắng bên đàng quạnh hiu.”
Trong bài “Tiếng Võng Ðưa” nông phu và
trâu càng gắn bó hơn:
“Gà
thôn vừa gọi vừng đông
Ta
cùng trâu đã ra đồng cày chiêm
Nước
nhà bao lúc ngả nghiêng
Nhà
nông vẫn chẳng hề quên ruộng vườn.”( BBL)
Trong bài “Con Trâu”, nhà thơ Phạm Ngọc
Khuê đã hết lời ca ngợi sức mạnh và lợi ích mà trâu đã đem lại cho con người:
“Nay
là lúc đem sức trâu mãnh liệt
Kéo
lưỡi cày rạch vỡ hết ruộng nương
Khơi
mạch sống từ trong lòng đất chết
Mở đường lên cho hạt thóc đang ươm
Nay
là lúc gặm cỏ khô rơm cứng
Giẫm
bùn lầy và chọi với nắng mưa
Lấy
chí ngang tàng và lòng quyết thắng
Làm
hơi rượu mạnh để say xưa...”
Trâu là một thành viên quan trọng bậc nhất trong sản xuất nông nghiệp, vì trâu là một nguồn năng lực bền bỉ và hùng mạnh. Không có trâu, nông dân sẽ rơi vào cảnh khốn khó và vô cùng vất vả trong việc cày, bừa. Tác giả Tiếng Võng Ðưa (BBL) đã mô tả sự cùng khổ này trong bài thơ “Người trâu”. Ðây là cảnh tượng đã diễn ra vào thập niên 1950 tại miền Bắc Việt Nam.
“...Trong
thửa ruộng chân đê tràn ngập nước
Ðôi
bóng người đang chậm bước đi đi.
Người
đàn ông cúi rạp bước lầm lì,
Người
vợ cố đẩy bừa theo sát gót.
Họ
là những nông dân nghèo bậc chót,
Không
có trâu nên người phải làm trâu
Họ
bừa ngầm một thửa ruộng chiêm sâu
Nước
đến bụng, ôi rét càng thêm rét!
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . “
Về văn xuôi có hai cuốn cùng nhan đề
“Con trâu” (1940), cuốn xưa nhất của ông Trần Tiêu, một nhà giáo trong nhóm Tự
Lực Văn Ðoàn, cuốn thứ hai của Nguyễn Văn Bỗng, quê Ðại Lộc - Quảng Nam,
(1921-2001) nhà văn vùng Việt Minh), nội dung dùng đề tài con trâu và nông dân
để tuyên truyền chống thực dân Pháp, xuất bản năm 1952.
Nhà
phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét về Trần Tiêu như sau: “Nếu muốn tìm những việc
oái oăm, những cơ mưu lắt léo trong Con trâu người ta sẽ không bao giờ thấy cả.
Ở tập truyện này chỉ diễn ra rặt những việc rất thường trong luỹ tre xanh,
những việc hàng ngày của dân quê Việt Nam”. Ðúng là cái tưởng như bình thường
lại trở thành không bình thường vì số phận của nhân vật chính từ mơ ước đến chỗ
mệt mỏi, mòn mỏi và chịu đựng cái chết. Con trâu, con vật quý của người nông
dân ảnh hưởng khá trực tiếp đến cuộc sống của một gia đình nông dân. Nhìn những
cảnh làng quê thiếu trâu bò, người phải kéo cày thay trâu càng thấy đau lòng.
Cũng vì thế người nông dân chăm sóc, bảo vệ trâu như con vật thân thiết. Trong
văn học Việt Nam thời hiện đại hình bóng con trâu cũng đi vào nhiều tác phẩm
như Con trâu của Nguyễn Văn Bổng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Con trâu
hai nhà của Trần Bảng trong thời kỳ hợp tác hoá nông nghiệp. Dù ở giai đoạn nào
thì đó cũng là vốn quý mà người nông dân nghèo trước đây không dám mơ ước.
Hiện
nay, có một tác phẩm viết về trâu bằng Pháp văn của tác giả Nguyễn Nga, nhan đề
“Le buffle et le grain de riz”. (Con trâu và hạt lúa).
Có một vài chuyện cổ tích liên quan đến
trâu, nhưng ý nghĩa rất nhạt nhẽo, không lý thú. Chẳng hạn, chuyện Trâu và Ngựa.
“Ngày
xưa, trâu có hai hàm răng, ngựa chỉ có một hàm. Một hôm trâu được mời đi ăn
giỗ. Lúc về trâu khoe với ngựa là nhờ có hai hàm răng nên đã ăn được một bữa
thoả thích. Ðến lượt ngựa được mời đi ăn giỗ, ngựa bèn đến bảo trâu cho mượn
một hàm răng để chén một bữa cho sướng miệng. Trâu vốn tốt bụng, gỡ răng ra cho
ngựa mượn. Ngựa đi ăn giỗ về, không muốn trả răng lại cho trâu. Trâu tới đòi,
ngựa liền bảo: ”Hàm răng của mày tao để ở cuối đường kia, bây giờ mày với tao
chạy thi, ai đến trước lấy được thì làm chủ hàm răng ấy.”
Trâu
vốn thật thà, không biết làm thế nào, đành nhận lời chạy thi với ngựa. Nhưng
trâu nặng nề chậm chạp, nên rốt cuộc đã thua ngựa và mất hàm răng.” (Việt
Nam Văn Học Toàn Thư, tr. 128).
Chuyện Con Trâu
và Con Cọp hay “Cái Trí Khôn”.
Chuyện kể rằng, một hôm cọp về đồng
bằng, núp trong lùm cây theo dõi con trâu đang cày ruộng. Thấy trâu luôn luôn
ngoan ngoãn tuân theo lời một con vật nhỏ bé, yếu ớt chỉ có hai chân. Ðến giờ
nghỉ, người chủ đi ăn trưa, trâu ở một mình gặm cỏ ven bờ ruộng, cọp liền đến
hỏi chuyện “Sao mày to lớn, mạnh mẽ như thế mà lại để cho một con vật nhỏ bé
điều khiển, hành hạ như vậy?” Trâu đáp: “Tao nghe lời nó vì nó có cái trí
khôn”. Cọp hỏi cái trí khôn là gì? Trâu nói hãy chờ chủ tao đến mà hỏi. Khi
người chủ trở về, cọp hỏi “Cái trí khôn của mày đâu?” Người chủ đáp “Cái trí
khôn tao để ở nhà, mày muốn coi tao sẽ về lấy cho.” Cọp đồng ý. Nhưng người chủ
nói, mày ở đây với trâu của tao, sợ mày ăn mất trâu, vậy nếu mày bằng lòng để
tao buộc mày lại rồi mới về nhà lấy trí khôn.” Vì tò mò muốn biết, nên cọp đồng
ý.
Trói xong trói cọp vào một cây cột,
người nông dân liền đi lấy đùi gỗ đến, nói trí khôn của tao đây này. Vừa nói
vừa đánh vào thân thể cọp. Cọp mắc mưu bị đánh khắp mình, rớm máu từng vạch.
Ðánh xong người chủ thả cọp trả về rừng bảo là không được trở lại phá hoại đồng
bằng nữa. Các vằn đen trên da cọp là vết tích của những lằn roi xưa.
Truyện Ngưu Lang ố Chức Nữ cũng được dân gian Việt Nam kể cho nhau nghe, được dựng thành kịch, phim vân vân, nhưng nó không liên quan trực tiếp đến trâu, chỉ nói đến mối tình giữa chàng chăn trâu (Ngưu lang) và cô nàng dệt vải (Chức nữ) mà thôi. Ngưu lang ố Chức nữ là huyền thoại gốc Trung Hoa, nhằm giải thích hiện tượng mưa ngâu tháng bẩy và sự kiện những con quạ sói đầu vào mùa thu.
MỘT SỐ TỪ NGỮ LIÊN QUAN ÐẾN TRÂU
Trâu cũng đã đi vào ngôn ngữ Việt với
một số thuật ngữ và thành ngữ.
-
Ðàn gãy tai trâu (ý nói việc
giảng giải, thuyết phục vô ích, vì người nghe không đủ khả năng hiểu, để lãnh
hội hoặc tiếp thu).
-
Làm như trâu (ý nói cần cù và lao
nhọc).
-
Hoa nhài cắm bãi cứt trâu (tình
duyên không được vào nơi xứng đáng).
"Con vợ
khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa
lài cắm bãi cứt trâu"
-
Mài sừng cho lắm cũng là trâu (ý
nói dù cố gắng bao nhiêu cũng không thể thay đổi được thân phận, địa vị hoặc
giai cấp).
-
Trâu buộc ghét trâu ăn (chỉ sự
ganh tị giữa người bị bó tay và người được hưởng thụ).
-
Len trâu (len: tiếng gốc Khmer,
có nghĩa “đi tự do” - len trâu là dẫn trâu đi tự do theo đàn. Ở miền Nam Việt
Nam, vào mùa mưa lụt, người ta phải thuê người đẫn trâu đi tìm các đồng cỏ ở
các nơi cao để nuôi, có khi thời gian len trâu này kéo dài nhiều tháng và đi
rất xa (vào vùng Bảy Núi chẳng hạn).
-
Ốc trâu (hiện tượng xẩy ra khi
khuấy hồ bằng bột nhưng không khéo, khiến cho nổi lên những nụ ốc).
-
Cụ Trâu: chỉ người thô kệch, ăn
nói thô lỗ, không biết phép xã giao (thổ ngữ Huế)
-
Trẻ trâu: từ mới xuất hiện ờ VN,
chỉ người mới lớn tự cho là mình "bảnh", "oai phong hơn
người" đặc biệt là khi có bạn bè cùng lứa chung quanh. Gọi là "trẻ
trâu" vì cách cư xử lì lợm, thô lỗ mà không tự biết. (tiếng Anh: young
bunk: Who behaves like he or she is tough)
-
Chửa trâu: người phụ nữ mang thai
hơn chín tháng, mười ngày...chửa thêm tháng, vùng quê gọi là "chửa trâu".
Theo tập tục, gặp trường hợp vợ "chửa trâu", người chồng phải tìm đến
một con trâu, rồi lén cắt đứt giây thừng sỏ mũi của nó, hoặc lấy một cái cọc
đóng vào chân cái cối giã gạo...Người ta tin rằng làm như thế vợ sẽ được sinh
ngay. (Theo Toan Ánh -Người Việt, Đất Việt.)
-
Làm thân trâu, ngựa:
Trong truyện
Kiều có câu
“Bao nhiêu duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.” (KVK câu
705-708)
- Thành ngữ “làm thân trâu ngựa” phát sinh từ thuyết Luân Hồi của Phật giáo, cho rằng người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá thân thành trâu ngựa vào nhà người đó mà trả nợ. Sách Trung Hoa có câu “Thụ trái bất hoàn, tử hậu thác sinh vi ngưu mã” (Nợ không trả được, thì sau khi chết hoá sinh làm trâu, ngựa kéo cày mà trả).
Một vài địa danh liên quan đến trâu:
-
Bến Nghé (tên cũ của Saigon).
-
Trâu Quỳ (Gia Lâm - Hà Nội).
-
Lò Trâu (gần Vĩ Dạ - Huế).
-
Hòn Trâu (ile aux Buffles) một
đảo nhỏ ở Bình Định
-
Dốc Trâu Té (chi khu Cỏ Ông).
- Buffalo (một thành phố gần Thác Niagara - New York -Hoa Kỳ).
TRÂU
TRONG PHẬT GIÁO
Trong Phật giáo, phái Thiền Tông lấy
hình tượng TRÂU để nói về phương pháp tu tập. Con Trâu hoang dã tượng trưng cho
TÂM. Người tu tập giống như người chăn trâu, do đó, Thiền Tông đã trình bày các
giai đoạn tu tập bằng 10 bức tranh “Chăn Trâu” ghi chú bằng Hán Văn gọi là THẬP
MỤC NGƯU ÐỒ”. Xin sơ lược sau đây để độc giả có một khái niệm tổng quát.
Có
thể nói, đề tài chung của các bức tranh chăn trâu của Thiền Tông là đường lối
tu tập. Ðường lối tuy nhiều, song không ngoài việc tìm và bắt tâm.
Kinh
Kim Cương có câu: “Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Hỏi rằng làm sao làm chủ được cái
tâm?). Do đó, tập 10 bức tranh “mục ngưu đồ” có thể coi như là lời giải đáp cho
câu hỏi trên đây.
Khởi
đầu, Tâm là con trâu hoang. Vì có trâu nên có người chăn (mục đồng). Bởi có Tâm
nên có Cảnh. Tất cả mọi nỗ lực của Phật giáo Ðại thừa đều nhằm vào sự “cột”
trâu, tức là “điều tâm”.
Tâm
là con trâu hoang. Muốn trị nó thường phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh
bằng roi, xỏ mũi bằng dây gai, dây thừng v.v... một cách tương tự, muốn trị
tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v....
Ðó
là bước đầu, diễn tả trong năm bức hoạ:" 1. Vị
mục, 2. Sơ điêu, 3. Thọ chế , 4. Hồi thủ và 5. Tuần phục”.
Vị mục: chưa chăn (trâu còn hoang dã, chú mục đồng đi tìm Trâu).
Sơ điều: mới chăn (thấy dấu vết trâu).
Thọ chế:
chịu phép (thấy được trâu).
Hồi thủ:
quay đầu (bắt được trâu).
Tuần phục:
vâng chịu (Trâu chịu di theo mục đồng).
Vô ngại: không ngại ... (Cỡi lưng trâu đi về nhà - Tâm đã thuần phục,
không cần chăn giữ - Tâm định, hết chấp ngã, tuy nhiên vẫn còn chấp pháp).
Nhiệm
vận: tha hồ (quên rằng mình ngồi trên lưng trâu - huệ giác đến chỗ Tâm vô Tâm-
Ngưu vô tâm, ngưu diệc vô tâm).
Tương
vong: cùng quên (không còn ý niệm nào về mình về trâu nữa- “Tâm cảnh song vong
nải thị chơn pháp”: Tâm và cảnh cùng mất tức là pháp đích thực).
Ðộc
chiếu: soi riêng (đến cảnh giới của Bồ Tát).
Song
dẫn: dứt cả hai (chỉ còn vòng tròn trống không, đó là vô ngôn và Viên Giác).
“Thập mục ngưu đồ” còn được đặt tên theo thứ tự như
sau:
Tầm
ngưu: tìm trâu
Kiến
tích: thấy dấu, kiến
Kiến
ngưu: thấy trâu
Ðắc
ngưu: được trâu
Mục
ngưu: chăn trâu
Kỵ
ngưu quy gia: cỡi trâu về nhà
Vong
ngưu tồn nhơn: quên trâu còn người
Nhơn
ngưu câu vong: người trâu đều quên (vẽ vòng tròn)
Phản
bổn hoàn nguyên: trở về nguồn cội
Nhập triền thuỳ thủ: thõng tay vào chợ
Sau
các giai đoạn của GIỚI (giữ gìn thân và tâm hướng Thiện, lánh Ác), ÐỊNH phát
sanh trong giai đoạn tiếp theo (ĐỊNH bao gồm sự dứt bỏ lo nghĩ, làm các duyên
lắng xuống).
Lâu
ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hoà. Trong giai đoạn
này, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng
ngại. Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp (còn ưu tư về nguyên
tắc, lý thuyết).
Ðây
là bước tu chứng của hàng tiểu Thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai
bức hoạ “vô ngại” và “nhiệm vận”.
[Thanh
văn thừa là người xuất gia tu theo Tứ Diệu Đế chỉ cho chúng sanh biết tam khổ,
bát khổ...cuối cùng đắc quả A-la-hán. Gọi là tiểu Thừa vì cách tu này chỉ độ
cho một người. Duyên giác thừa là Bích Chi Phật, giác ngộ nhưng không có khả
năng giáo hóa chúng sanh đắc quả Vô Thượng. Duyên giác thừa tu theo Thập Nhị
Nhân Duyên, gọi là trung Thừa -giữa Thanh văn và Bồ tát.]
Cần
đi thêm bước nữa để khai mở HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM: “Nhơn vô tâm, ngưu
diệc vô tâm”.
Ðến
giai đoạn này mới phá được Pháp Chấp: Pháp cũng không, Ngã cũng không. Trâu mất
mà người cũng chẳng còn, cảnh bị quên rồi tâm cũng quên. Ði thêm bước nữa là
cảnh giới như lai: vô ngôn, vô niệm, tất cả đều không. HUỆ là giai đoạn thể
nhập chân lý, thấy rõ sự thật, trí tuệ khai mở, thoát khỏi mê lầm, vọng tưởng.
phiền não được diệt trừ.
Tóm
lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người tu tập theo Phật,
trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng đến tự tại. (Từ
GIỚI đến ĐỊNH và sau cùng là HUỆ.)
Tranh
Thiền Tông có loại vẽ trâu đen, có loại vẽ trâu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch
ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Ðạo Phật có ba thừa - tức ba cỗ xe -
là xe dê, xe nai và xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ
tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo.
Tuy
nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên để trợ giáo, đó là những tượng
trưng, những pháp môn có tính cách tiếp dẫn, dùng cho người kém khí lực. Ðối với
hạng thượng căn chỉ một thừa thôi - Phật thừa - trực tiếp đưa người vào cảnh giới
Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của
Phật Thiền Tông chủ trương tức khắc thành Phật là vậy.
Tuy
nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít được
thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.
Khi
mới bắt đầu tu thì dựa vào hình tượng phương tiện, nhưng khi đã thuần thành thì
phải rời bỏ phương tiện.
Hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền vẫn là sự “hàng phục
kỳ tâm”(thắng được tâm mình).
Tâm
của Ðại Thừa là ngã tướng. Ðến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm.
Niệm là ý nghĩ, tư duy, là kiến văn, được coi là thành phần chính yếu của cái
“tôi”. Do đó Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì... Pháp
Bảo Ðàn Kinh viết:
Vô
niệm: niệm tức chánh.
Hữu
niệm: niệm thành tà.
Vì
vậy, Thiền hoàn toàn kỵ lý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên
lời, thảng có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình tiến
triển của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Ðại Thừa đập vào trí
thông minh mà loài người thường tự hào.
Trong
hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc
thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này./.
NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN - ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA
Ngưu Đầu, Mã Diện (牛頭馬面): là tên gọi hai con quỷ trong cõi âm ty, làm nhiệm vụ hai tướng quân cai quản các linh hồn bị đọa xuống Địa Ngục. Hai Quỷ Ngưu Đầu, Mã Diện còn có chức danh là Câu Hồn Sứ Giả lo việc đi tìm bắt những linh hồn của người dương gian tới số dẫn giải
về Địa Ngục. Ngưu Đầu, Mã Diện được xếp vào hàng 10 vị quỷ Ly Mị Võng
Lượng ( tức là các loại quỷ từ núi biến
hóa (Si) có thân người đầu thú cọp, beo; từ trong nhà biến hóa ra (Mị) có hình
người đầu heo hoặc quái vật; quỷ, quái từ gỗ và đá biến hóa là Võng Lượng.)
Trong Phật giáo, quỷ Ngưu Đầu tên là A Bàng có đầu
trâu, tay người, hai chân trâu; tay cầm cây cây Cương Xoa; có sức mạnh vô địch, có thể nâng một ngọn núi lớn. Theo Thiết Thành Nê Lê Kinh (鐵城泥犁經), khi đang còn làm thân người, A Bàng không hiếu thuận
với cha mẹ, nên sau khi chết bị biến thành con quỷ có đầu trâu, có trách nhiệm
tuần tra tứ phương và bắt tội nhân trốn ngục; nên có tên gọi là Phòng La Nhân. Có sách cho rằng lúc đầu, trong Phật Giáo chỉ có
Ngưu Đầu, chứ không có quỷ Mã Diện, nhưng sau khi Phật Giáo du nhập vào Trung Hoa, do quan niệm đối xứng của dân gian, nên xuất hiện thêm quỷ Mã Diện, thành một cặp, luôn đi với nhau.
Có thuyết cho rằng Mã Diện là vị thần tên Mã Diện La Sát hay Mã Đầu La Sát mang mặt con ngựa. Đây là một vị thần lớn trong Mật
Giáo của đạo Phật. Truyền thuyết cho rằng Mã Diện La Sát là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm và cũng là
quỷ thần trông coi cõi Âm Phủ. Ngưu Đầu, Mã Diện là hai vị quỷ này không làm điều hại người, thường đi chung với nhau, tìm bắt linh hồn tội nhân trốn ngục và đưa trở về địa ngục.
(Theo Tự Điển Phật Học online)
NGƯU MA VƯƠNG
Ngưu
Ma Vương có hiệu là Bình Thiên Đại Thánh ( so với Tề Thiên Đại Thánh tức Tôn
Ngộ Không) thân người nhưng đầu bị cắm sừng như trâu mà không phải trâu; có vợ
chính là Thiết Phiến Công Chúa, đã tu luyện được Địa Sát Thất Thập Nhị Biến (72
phép biến hóa) với sức mạnh vô địch, vũ khí chính là Hỗn Thiết Côn. Đã kết giao
bằng hữu với Tôn Ngộ Không. Nhưng
trên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh của Đường tăng, Tôn Ngộ Không đã bị Ngưu Ma Vương làm khó, đánh nhau bất phân thắng bại. Nguyên nhân của trận đánh là do khi bị hỏa diệm sơn chặn đường qua Tây Trúc, Tôn Ngộ Không đã biến thành Ngưu Ma Vương (giả) tìm đến chỗ Thiết Phiến Công Chúa dùng tình cảm thuyết dụ để mược Quạt Ba tiêu có khả năng quạt tắt hỏa diệm sơn. Việc này đã khiến cho Ngưu Ma Vương nổi trận lôi đình quyết tìm tên Khỉ đá cho một bài học. Tôn Ngộ Không không thể thắng Ngưu Ma Vương nên phải cầu cứu Na Tra và Lý Thiên Vương trên trời xuống thu phục con trâu vua này.
KHIÊN NGƯU
Tên
một vì sao trên dãi Thiên Hà. Trong huyền thoại Ngưu lang- Chức nữ. Hai người yêu
nhau nhưng bị trời phạt, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào mồng bảy tháng
bảy âm lịch. Khiên ngưu có nghĩa là Dắt trâu. Sao Khiên Ngưu nằm ở bờ Nam Thiên
Hà đối diện với Sao Chức Nữ.
Trong tử vi Tây Phương, trên Hoàng Đạo có sao Kim Ngưu (Taurus). Người sinh trong khoảng từ 21/4 đến 20/5 thuộc sao Kim Ngưu -Taurus.
TRÂU (NGƯU) TRONG THUỐC ĐÔNG Y
-
Ngưu
Tất, tục gọi là cỏ Sướt, bổ gân cốt, bổ dương tinh; chữa bại liệt, điều huyết,
trừ sốt rét kinh niên.
-
Ngưu Hoàng: vị đắng, đại
trị phong đàm, an hồn định phách, kinh giật linh đơn.
-
Khiên
Ngưu tử, tức hột Bìm Bìm, tác dụng lợi tiểu, thông quan, long đờm, sát trùng.
-
Thiên
Ngưu, thường gọi là con Xén Tóc, có tác dụng trừ ngược phong, thấp kinh ở trẻ
con, hút mụn đinh.
-
Ngưu
Bàng tử, (còn có tên Ðại lực, Thử niêm đang) chữa ban chẩn, yết hầu.
-
Oa
Ngưu, tục gọi là con Sên, trị phong tà méo lệch miệng, thần kinh co rút, chữa vết
sưng do rết cắn.
-
Thuỷ
Ngưu nhục, tức là thịt Trâu, hoà tỳ, bổ thận và gân cốt, chữa phong, thuỷ
thũng.
-
Hoàng
Ngưu nhục, là thịt Bò, ấm tỳ, tăng khí, mạnh chân và lưng, giải khát sinh nước
bọt, làm cổ hết khô.
-
Ngưu
Giác, tức là sừng trâu, chữa thương hàn, nhiệt độc, sa lâm huyết, đờm thũng, họng
tê đau.
-
Ngưu
Giác Tai, là cái nõ sừng trâu, chữa băng lậu, trường phong đới hạ, trưng hà, lỵ,
đau bụng.
NGUYỄN CHÂU (01/2021)