Sống Thiền - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
Cơm áo nhạt màu đố kị
Bài thơ lỏng nhịp bon chen
Trăng khuya đối ẩm thiền thi sĩ
Chia sẻ niềm vui với đất trời.
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
(Thivien.net)
Tôi trân trọng cảm ơn, và xin giới thiệu đoạn văn thú vị này:
“Ba Tiêu là một thi hào lãng du, một người yêu thiên nhiên vô cùng đắm đuối, một loài trữ tình lãng mạn thiên nhiên. Cuộc đời của ông trôi theo cuộc lữ đi từ cực Nam
đến cực Bắc của Nhật Bản. May thay, thời đó
chưa có tàu hỏa. Những tiện nghi của đời sống mới hình như chẳng tốt đẹp gì cho thi
ca. Tinh thần phân tích khoa
học của đời sống mới tước bỏ hết
cái u huyền ẩn
mật; thi ca, bài cú hình như không sống nổi ở những nơi mất hết cả
những huyền vi ẩn mật. Cuộc rối loạn với
khoa học là sự kiện đã lột bỏ hết mọi
sự ẩn ước, tất cả bị lột trần, và những gì thấy được đều đã nằm trơ ra đó. Nơi
nào khoa học ngự trị, óc tưởng tượng gióng trống rút lui.
Chúng ta bị bắt buộc
phải đối diện với những sự kiện được gọi là cứng rắn đó, và rồi đầu
óc chúng ta trở
thành lạnh lùng như xương
trắng; nơi nào không có một chút dịu ngọt dành cho chúng ta, thì thi ca bỏ
đi; nơi nào là một bãi cát mênh mông nơi
đó không thể có tàn cây xanh lá. Trong thời Ba
Tiêu, đời sống chưa quá vô vị và nặng nề như thế. Một cái nón tre, một
cái gậy trúc và một túi vải có thể đủ cho nhà thơ lang thang đây đó, dừng lại
trong khoảnh khắc ở một xóm nhỏ khơi dậy tâm tình lãng
mạn, thưởng thức tất cả những
lịch nghiệm, dĩ nhiên rất gian khổ
trong cuộc lãng du của thời bán khai. Đến
khi cuộc du lịch trở thành quá dễ dàng
và đủ tiện nghi, ý nghĩa tâm linh của
nó không còn nữa. Có thể gọi đây là chủ nghĩa duy
cảm, nhưng một tình cảm cô liêu nào đó được nảy sinh từ cuộc lãng du gợi cho ta
trầm tư về ý nghĩa của đời sống, bởi
vì đời sống kỳ cùng là một cuộc lữ đi
từ đầu này đất lạ đến đầu kia vùng đất lạ. Trong cái thời của những năm 60,
70 và 80 đã định sẵn cho chúng ta rồi, chúng ta được phép vén mở bức màn huyền ẩn, nếu có thể. Một dòng đời rất nhẹ nhàng mặc dù là quá
ngắn ngủi trôi qua trong khoảng thời gian này
đã cướp mất chúng ta cái cảm giác vĩnh tịch đó.
Tiền bối của Ba Tiêu (Bashô) là Tây Hành (Saigyô) dưới thời Kiếm Thương (Kamakura; 1168-1334). Ông cũng là một nhà sư lãng du. Sau khi rời bỏ quan chức, một võ quan do triều đình phong, sư để dành cả cuộc đời mình cho cuộc lữ và cuộc thơ. Đó là một nhà sư của đạo Phật. Nhất định bạn đã từng thấy, nơi nào đó khi bạn ghé ngang qua Nhật Bản, chân dung của một nhà thơ trong chiếc áo vân du, hoàn toàn đơn độc, đang ngắm nhìn ngọn Phú Sĩ Sơn. Tôi quên mất họa sĩ là ai, nhưng bức tranh gợi nên nhiều mối cảm nghĩ, nhất là trong nỗi cô liêu huyền bí của đời sống con người, dù vậy đó không phải là cảm giác bị bỏ rơi, không phải là tâm tình nặng trĩu cô liêu, nhưng chỉ là một lối chiêm nghiệm cái huyền vi của tuyệt đối. Thì đây là một bài thơ của Tây Hành (Saigyô):
Gió cuốn lên
Khói mờ trên
Phú Sĩ
Bay mất ngoài xa xăm
Ai biết về
đâu nhỉ?
Cõi lòng tôi
cùng lang thang.
Ba Tiêu không phải là một nhà sư tu Phật nhưng
cũng là một đệ tử của thiền gia.
Vào đầu thu, khi trời bắt đầu mưa từng độ, trời đất hiện thân của vĩnh tịch. Nhưng cành cây trụi lá, những ngọn núi bắt đầu mang dáng dấp khắc khổ, những con nước trôi nhanh hơn và trong cảnh chiều khi đàn chim, sau một ngày mệt nhọc, đang tìm đường về tổ, một lữ khách đơn côi càng trở nên đăm chiêu về số phận của đời người. Phong độ của ông cùng cử động với phong độ của thiên nhiên. Ba Tiêu hát:
Một lữ
khách
Xin gọi tên
tôi là thế
Cơn mưa thu
này.
Chúng ta không nhất thiết phải là những ẩn sĩ, nhưng tôi không rõ trong mỗi người chúng ta có hay không có một ước vọng triền miên trước một thế giới vượt ngoài cõi đời thông tục tương đối này; vọng về nơi mà linh hồn của
mình có thể trầm ngâm chiêm nghiệm số phận riêng tư của nó.
Lúc Ba Tiêu đang
còn học thiền với Phật Đỉnh Quốc Sư (Bucchô Kokushi), một hôm Quốc Sư đến viếng ông và hỏi: “Lúc này con ra
sao?” Ba Tiêu: “Sau cơn mưa vừa qua, rong
rêu xanh hơn trước.”
Phật Đỉnh: “Trước khi rêu xanh thì Phật pháp là gì?”
Ba Tiêu: “Con ếch nhảy vào nước, kìa tiếng
động!”
Người ta nói rằng kể từ đó một giai đoạn
mới trong lịch sử của bài cú bắt đầu. Bài
cú trước thời Ba Tiêu chỉ
là một lối chơi chữ, không liên hệ đến đời sống. Ba Tiêu,
nhân được thầy của ông hỏi về chân lý rốt ráo của mọi vật trước
khi có thế giới sai biệt này, đã thấy
một con ếch nhảy xuống giếng cạn, tiếng động rung
lên giữa một vùng tĩnh lặng. Đã bắt được nguồn mạch của đời sống và nghệ sĩ ngồi ở đây ngắm nhìn cõi lòng của mình đang xuôi theo
dòng sinh hóa triền
miên của thế giới, rồi từ
đó biết bao nhiêu bài thơ 17 âm tiết truyền lại đến chúng ta. Ba Tiêu quả
là một nhà thơ của Vĩnh Tịch.
Một bài thơ bài cú khác của ông như sau:
Một cành cây
trụi lá,
Một con quạ
đậu trên cành
Chiều thu
sang.
Tính cách giản dị của hình thức không phải lúc nào cũng có nghĩa là có một nội dung thô thiển. Có một Cõi Ngoài hoằng đại ở ngay trong con quạ cô liêu đậu trên cành cây khô trụi lá. Mọi vật hiện ra từ một hố thẳm huyền ẩn tuyệt mù, và ngang qua nơi mỗi sự vật đó mà chúng ta có thể ném cái nhìn vào tận đáy sâu của hố thẳm. Các ngài khỏi cần phải làm một bài thơ lớn dài hàng trăm câu mới có thể thổ lộ được cái tình cảm được khơi dậy bởi cái nhìn rọi vào hố thẳm. Khi một tình cảm đạt tới các độ rung cảm của nó chúng ta chỉ còn im lặng, vì không có lời nào nói cho xứng. Thậm chí 17 tiếng cũng là đã quá nhiều rồi. (…..).
(…..)
Để kết luận: tinh thần Vĩnh Tịch (viviktadharma), tức tinh thần của Thiền
tự bộc lộ dưới danh hiệu “Sabi” (Tịch) trong các bộ môn nghệ
thuật khác nhau của đời sống, như thuật làm
vườn cảnh, trà đạo, hội họa, cắm hoa, trang
phục, trang trí, trong cách sống, trong vũ
điệu nô, thi ca, vân vân. Tinh thần này bao gồm những yếu tố như:
giản dị, tự nhiên, không câu nệ, tế nhị, tự do, thân thiện nhưng tỏ ra hững hờ kỳ lạ, và cái chung đụng thường
nhật được bao phủ tuyệt diệu với làn sương mù hướng nội siêu việt.
Để điển hình, tôi xin mô tả một trà thất trong
một thiền thất tại chùa Daitokuji (Đại Đức Tự). Ngôi chùa này đứng hàng đầu về trà đạo. Con đường lát
đá, với những viên đá không được sắp tề chỉnh,
dẫn tới một gian nhà nhỏ tầm thường mái lợp tranh, thấp và rất khiêm tốn. Lối
vào không đi bằng cửa, mà được làm như kiểu khoét vách; khi bước vào, khách
phải cởi bỏ tất cả những vật mang theo, tức
là, bỏ lại hết trường kiếm và đoản kiếm, mà trong thời phong kiến một võ sĩ lúc nào cũng mang theo. Bên trong là một căn phòng nhỏ mờ sáng,
vuông vức khoảng mười bộ; trần nhà thấp, mặt cao không đồng đều và bằng vật
liệu ghép. Các chỗ ngồi không trơn
nhẵn, hầu hết được làm bằng gỗ tự nhiên.
Tuy vậy, sau một đỗi, khi cặp mắt quen với khung cảnh mới, căn phòng càng lúc
càng sáng hơn. Chúng ta nhận thấy trong góc lỏm một bức “thơ vật”
(kakimono), một tác phẩm nghệ thuật
viết chữ, trông cổ kính, với một thủ thơ
hay một họa phẩm theo lối mặc hội (sumiye). Một lò hương tỏa khói thơm có tác
dụng làm êm dịu trí não. Bình
hoa chỉ cắm độc nhất một nhánh hoa, không lộng lẫy, không hào nhoáng; nhưng giống như một đóa hoa bách hợp màu
trắng, nhỏ, dưới một tảng đá chung quanh có những gốc tùng rợp bóng, đóa hoa
khiêm tốn vươn cao trong vẻ đẹp, lôi cuốn khách
chú mục vào đó; họ có khoảng bốn hay năm người được mời riêng đến nhấm một
chung trà để quên những công vụ ngoài đời thường đè
nặng lên mình.
Rồi chúng
ta nghe tiếng nước sôi trong ấm, bắc trên bếp lửa có ba chân ở một
cái lỗ vuông được đào dưới nền nhà. Âm thanh này thực ra không phải của tiếng nước đang sôi, mà do
ấm thiếc nặng; khách thưởng giám có thể so sánh rất chính xác với cơn gió nhẹ thổi qua những ngọn
tùng. Chừng đó cũng đã là lớn đối với sự yên tĩnh của
gian phòng, vì ở đây người ta cảm
tưởng như mình đang ngồi đơn độc trong
một thảo am sơn dã mà những người bạn
tri âm chỉ là một đám mây trắng và
tiếng nhạc của ngọn tùng.
Uống một chung trà với bằng hữu trong
khung cảnh này và có lẽ bàn luận về
nét phác họa thủy mặc trong góc phòng,
hay một đề tài nghệ thuật nào đó được gợi lên bởi những dụng cụ trà ở trong
phòng, mà lạ lùng thay, tâm hồn bốc cao
lên khỏi những tế toái của đời sống.
Người chiến sĩ cởi bỏ quân vụ chiến đấu hằng ngày, thương gia được giải tỏa khỏi ý tưởng làm tiền ám
ảnh của mình. Quả thực, đó há không là cái mà người ta phải tìm kiếm trong thế
giới cạnh tranh và hư ngụy này, một góc phòng, dù nhỏ nhoi, mà nơi
đó người ta có thể vượt lên những giới hạn của tương đối để một
thoáng nhìn vào vĩnh cửu?”
---
(Daisetz Teitaro Suzuki; THIỀN LỤẬN - quyển hạ; Việt dịch: Tuệ Sỹ; Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, PL. 2533 – 1989)