Sài Gòn Đã Thay Đổi Một Người Hà Nội
Như Thế Nào? - Nguyễn Quang Lập
Đã trải qua hàng chục năm kể từ ngày ấy, nhưng những
kỷ niệm đó tôi không bao giờ quên. Sài Gòn đã thay đổi tôi, một người đến từ Hà
Nội.....
....Mãi tới 30.4.1975 tôi mới biết thế nào là ngày
sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái
gì rất phù phiếm. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh
nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học
Bách khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là sinh nhật của
tôi. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận
hưởng “Ngày trọng đại”.
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau
ngày 30.4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài
Gòn năm 1953, làm cha tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ
“đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Cha tôi quá mừng vì ông bác tôi
còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba
tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn
tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng
sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được
ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu.
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn
qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp,
ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh
thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là “bút nguyên tử”. Nó bấm
đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm
mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể
tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát.
Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào
bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào
đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa
cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế
kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia,
chỉ dành cho các du hành gia vũ trụ, người thường không bao giờ có.
Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để
nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi
cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu
xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến
xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường
không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật
máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng
không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong
tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à.
Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến
Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi.
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm
nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kỳ nghỉ hè năm sau, tháng 8.1976, tôi mới được vào
Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”,
nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi,
đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài
Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt
thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, tivi tới xe máy, ô tô, cầu thang
máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục
đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi.Thán phục
chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng
đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước
xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà
bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi
ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều
mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng
dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn
thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách
hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình
có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của
các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè.
Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nylon, chăm chút cẩn thận cứ như
bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả
những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nylon gói
hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nylon đựng
hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp
cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm
vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp
hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt
sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn
đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu
dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi.
Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng
đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ
tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn.
Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân
Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt.
Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc
Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính.
Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê.
Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà
phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng.
Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh
mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi
một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau
nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường
hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy sách.
Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết
nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa
hè mênh mông sách đó,
có cả những cuốn sách Mác - Lê: cuốn Tư bản luận của
Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng
nhiều sách khác.
Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau
mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán
sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quan vui vẻ nói, dạ
chú, sinh viên trong này học cả Mác - Lê.
Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể,
với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt
nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi
sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì.
Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi,
nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi.
Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập
dị.
Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
Nguyễn Quang Lập