Nghĩ Về Bài Thơ "Đây Thôn Vĩ Dạ"
của Hàn Mặc Tử - Châu Thạch
Nếu người ta tốn rất nhiều giấy mực để viết
về Hàn MạcTử thì trong đó một phần không nhỏ đã viết cho bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của ông.
Bây giờ trước hết xin quí vị thưởng thức bài
thơ Đây Thôn Vĩ Dạ.
Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên
Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc
che ngang mặt chữ điền.
Gió theo
lối gió, mây đường mây
Dòng nước
buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai
đổ bến sông Trăng đó
Có chở
trăng về kịp tối nay?
Mơ khách
đường xa khách đường xa
Áo em
trắng quá nhìn không ra…
Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết
tình ai có đậm đà?.
Đây là một bài thơ hay, nhưng thật khó dùng
lời diễn tả được hết cái hay của nó. Đọc những bài bình thơ trên báo chí, những
bài giảng văn trong sách học đường tôi lại càng thấy rối bòng bong thêm vì có
nhiều người đã nặn ra những ý tưởng mà tôi cho là thiếu chính xác, không
đúng với sự thật của bài thơ.
Trước hết tôi xin điểm qua những nhận xét,
những lời bình ấy như sau:
1. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ tả về một vùng quê của đất nước Việt Nam.
2. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là nét vẽ thần
tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người em gái thôn Vĩ.
3. Sự nổi loạn trong thi pháp HMT ở chổ mạch
thơ biến đổi bất ngờ qua ba cảnh trong ba khổ thơ. Cảnh và người trong bài thơ
chỉ mang một phần hoài niệm về một thời gian quá vãng,còn lại chỉ là những ảo
giác siêu hình.
4. “Đây Thôn Vĩ Dạ”, phải chăng đó là một thế giới mong manh, được
thụ cảm bởi một nhà thơ bệnh hoạn?.
Còn nhiều và còn nhiều những ý tưởng, lời
bình thơ khác lạ. Nhưng thôi tôi chỉ xin nêu ra bốn lập luận chính và có ý kiến
khác với họ, mong quí vi đọc và thảo luận để cùng nhau sáng tỏ.
1.
Tả về một vùng quê Việt Nam:
Quí vị nào đã đi nhiều tất sẽ biết, không có
một vùng quê VN nào giống như thôn Vĩ Dạ cả, mà cũng không có
một làng quê VN nào giống như thôn Vĩ Dạ cả. Họa chăng ở một thôn một
làng nào đó có vài điểm na ná như Vĩ Dạ mà thôi. Thôn Vĩ Dạ giống như một cô
gái thuộc dòng tôn thất diểm lệ, yêu kiều, đài các, kiêu sa và thanh nhã, chỉ
có ở Huế và đặc sệt là Huế. Vĩ Dạ xưa kia cũng như ngày nay tuy có người làm
nông nhưng đa số là chức sắc của hoàng tộc, nhân viên cao cấp nhà nước cư ngụ,
cho nên cách sắp xếp nhà cửa, vườn tược, lối đi hài hòa thanh nhã không giống
một làng quê nào của VN. Đó chính là một thôn trong lòng kinh đô xa xưa và
trong lòng Thành phố Huế ngày nay. Nếu một nhà văn hay một nhà thơ nào muốn tả
cảnh một vùng quê VN thường là đưa ra hình ảnh lũy tre làng, dòng sông xanh,
con trâu cái cày, cô thôn nữ gánh lúa về chớ mấy ai lại tả vườn xanh như ngọc,
dòng nước buồn thiu, cô gái áo trắng như nhà thơ HMT đã tả.
Trong “Đây thôn Vĩ Dạ” theo tôi nhà thơ HMT không tả cảnh một vùng
quê Việt Nam tiêu biểu nào . Nhà thơ chỉ tả đích thị thôn Vĩ Dạ là một thắng
cảnh cá biệt, có một không hai ở cố đô Huế mà thôi. Sách giáo khoa ở nhà
trường dạy cho học sinh đây là cảnh một vùng quê VN rồi buộc các em phải nặn óc
để làm bài tập thì chẳng khác chi chỉ một thư sinh cắp sách đến trường rồi bảo
các em tả em bé chăn trâu vậy.
2.
Nét vẽ lá trúc che ngang:
Tôi chưa hề đọc sách nào, chưa từng nghe ai
cho rằng người con gái đẹp lại có khuôn mặt chữ điền. Đọc trên các sách bói
toán, sách tử vi, và các sách nghiên cứu về khuôn mặt thường thấy giải như sau:
a. Khuôn mặt chử điền thể hiện đúng là một
nam nhân, thể hiện người có cá tính trung trực hài hòa và thành đạt.
b. Người nữ có khuôn mặt chữ điền tánh tình
kịch kợm, nóng nảy và nhiều nam tính.
c. Điền là ruộng. Mặt chữ điền là mặt vuông
vức như đám ruộng. Đàn bà cần tròn trịa, đàn ông cần vuông vức.
Nếu muốn diển tả một khuôn mắt đẹp bị che bởi
lá trúc tại sao HMT không dùng mặt trăng, trái soan , bông hoa để làm hình dung
từ như bao người viết khác mà lại dùng một khuôn mặt đàn ông, một khuôn mắt võ
tướng, một khuôn mặt như đám ruộng để lồng trong khung cảnh đẹp đẻ thế kia. Nếu
tôi là họa sĩ, tôi sẽ vẽ lại bức tranh mà HMT đã tả dể dàng: Vười ai có khóm
trúc, khóm trúc che bớt một phần mãnh vườn có hàng cau, và mãnh vườn thì nằm
cạnh dòng sông có nương bắp trên bờ. Theo tôi “lá trúc che ngang” chỉ là
che ngang khuôn viên vuông vắn của mãnh vườn mà thôi.
3. Sự nổi
loạn và ảo giác trong bài “Đây Thôn Vĩ Dạ”:
Đọc kỷ “Đây Thôn Vĩ Dạ” ta thấy nhà thơ tả ba
cảnh khác nhau trong ba khổ thơ. Khổ thứ nhất tả nắng trên hàng cau, vườn xanh
như ngọc có lá trúc che ngang. Khổ thứ hai tả dòng sông có con thuyền đậu và có
hoa bắp ở trên bờ. Khổ thứ ba không tả, chỉ nói qua về tà áo trăng cô gái và
nói cảm nghĩ của mình.
Qua ba khổ thơ HMT viết như một bài luận văn
tả cảnh của một học trò, có nhập đề, có thân bài và có kết luận. Câu thơ nầy
nối câu thơ kia ăn vận, khổ thơ nầy nối khổ thơ kia hài hòa hiệp ý, chẳng có
chổ nào có thể gọi là nổi loạn cả.
Như chúng ta đã biết, sở dĩ “Đây Thôn Vĩ Dạ” hình thành là bởi
tác giả cảm hứng khi nhìn thấy bức tranh của cô Hoàng Cúc gởi tặng.
Chắc chắn cảnh hàng cau, vườn xanh, dòng
sông, chiếc thuyền, áo trắng đã được chụp vào trong ảnh và hiện trước mắt thi
sĩ khi ông ta xem ảnh. Khi nhìn vào bức ảnh HMT đã thấy gì tả nấy, nếu có hư
cấu thì ông hư cấu thêm gió và trăng là những hình ảnh mà thi nhân nào cũng
thường nghĩ tới khi làm thơ. Có thể nói rằng HMT đã tả thực khi sáng tác bài
thơ nầy, nhưng nhờ cái thiên tứ thần thơ ông đã làm cho bức ảnh trở nên linh
động có biến, có hiện, có thật, có mơ khác với sự tầm thường của chúng ta mà
thôi. Đó không phải là sự nổi loạn, lại càng không phải là là ảo giác siêu hình
của nhà thơ. Theo tôi HMT rất tỉnh táo khi nhìn bức ảnh và tả cảnh thôn Vĩ Dạ
qua bức ảnh nầy. Ông lại càng tỉnh táo hơn nữa khi viết:
Gió
theo lối gió mây đường mây
Dòng
nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền
ai đỗ bến sông trăng đó
Có
chở trăng về kịp tối nay?
Hoặc là:
Mơ
khách đường xa khách đường xa
Áo
em trắng quá nhìn không ra
Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai
biết tình ai có đậm đà?.
Tôi không dám luận bàn hai khổ thơ nầy vì nó
hay quá, trình độ tôi không bình nó được. Nhưng, hãy đọc đi đọc lại hai khổ thơ
nầy thì bất cứ ai, đều có thể cảm nhận được cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ, mà không
thấy cái điên, cái bệnh, cái nổi loạn, cái ảo giác siêu hình nằm ở đâu trong
thơ. Vậy thì HMT khi sáng tác bài thơ nầy cũng rất tỉnh táo như chúng ta, có
chăng là ông đã phát tiết hết được những màu sắc, âm thanh tiềm ẩn trong bức
ảnh mà thôi.
4. “Đây Thôn Vĩ
Dạ” là thế giới mong manh được thụ cảm bởi một nhà thơ bệnh hoạn?
Tôi không biết câu hỏi nầy là khen hay chê
nhưng rõ ràng Thôn Vĩ Dạ không phải là một thế giới mong manh, cho nên nhà thơ
cũng không phải vì bệnh hoạn mà thụ cảm cái mong manh nầy. Thôn Vĩ Dạ ngày nay
vẫn còn đó, nhà có cao lên, đường có rộng ra nhưng vườn, sông, trăng và con
người vẫn tồn tại y nguyên đến bây giờ. Sở dĩ thơ HMT viết “Gió theo lối gió
mây đường mây” vì ông đã từng thấy dòng sông và nương bắp khuất dưới vườn
cây, ẩn sau lũy tre, do đó khi gió thổi, mây trên cao thì bay mau nhưng nước và
hoa bắp dưới thấp thì chỉ xao động nhẹ. Mây bay mau vì ở trên cao chịu gió
nhiều. còn dưới thấp thì gió ít hơn nên nước và hoa bắp lay xao động nhẹ mà
thôi. Vậy cho nên “Gió theo lối gió mây đường mây” là tả chân, là thấy
sao viết vậy, và cũng nhờ sự lạc lỏng nầy mà phong cảnh trở nên trầm buồn, êm
ái nhưng bức tranh vẫn là linh hoạt.
Không ai biết bức ảnh mà Hoàng Cúc tặng cho
thi sĩ chụp vào buổi sáng hay buổi chiều, nhưng chắc chắn đó là hình ảnh cô gái
mặc áo trắng đứng trong vườn. Máy ảnh ngày xưa không rõ nét bằng bây giờ, ảnh
lại chụp một khung cảnh quá rộng ngoài trời, áo cô gái lại trắng nên “nhìn
không ra” là lẽ tự nhiên:
Mơ
khách đường xa khách đường xa
Áo em
trắng quá nhìn không ra
HMT đã tả thực cái thấy trong bức ảnh, đâu
phải vì bệnh hoạn mà thụ cảm cái mong manh, mơ hồ như bóng ma đâu. Xem xong bức
ảnh, HMT để xuống và thở dài bằng một câu:
Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai
biết tình ai có đậm đà?
Đây là câu thơ mà tác giả tưởng tượng như cô
gái nhắn nhủ với mình. Thật là một câu thơ tỉnh táo, hợp lý trong hoàn cảnh đó,
không mong manh không thụ cảm như những lời bình thơ suy diễn thêm lên.
Khi thơ quá hay thì khó mà bình, vì tài ta
hèn, chữ ta không đủ, thì nên bình yên mà thưởng thức. “Đây Thôn Vĩ Dạ” là một
bài thơ quá hay, cho nên đừng cố hư cấu thêm sẽ làm hư một bài thơ và hư nếp
suy tư của học sinh nếu đem vào dạy ở học đường.
Châu Thạch