Sự Thật Cuộc Chiến Việt Nam
(Đằng sau hiệp định Paris và MẬT
ƯỚC HOA KỲ với BẮC VIỆT)
- Trần Không Tên
Năm 1973, ngày 7.2, mười một ngày sau khi ký kết
Hiệp Định Paris, Kissinger lên đường đi Hà Nội. Tại Hà Nội Kissinger trao cho
Phạm văn Đồng một công hàm của Tổng Thống Nixon, trong đó quy định thể thức
thanh toán số tiền bồi thường chiến tranh cho
Hà Nội là 4,75 tỷ USD. Sau đó Thủ
Tướng cộng sản Việt Nam Phạm văn Đồng giao cho Kissinger mang về cho Tổng Thống
Hoa Kỳ một công hàm hoan nghênh tinh thần Mật ước của Nixon và hứa sẽ thi hành
nghiêm chỉnh Mật ước này. Như vậy là Mật ước đã có đủ chữ ký của cả hai người cầm
đầu chính phủ. (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại
Paris)
Nguyên văn Mật ước:
Ngày 1 tháng 2 năm 1973.
Tổng Thống thông báo cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến
tranh ở Bắc Việt Nam. Như đã nêu trong Điều 21 của Hiệp Định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng
năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này theo chính sách truyền thống của
mình.
Những nguyên tắc đó là:
1.- Hoa Kỳ sẽ đóng góp xây dựng lại Bắc Việt sau
chiến tranh mà không cần một đòi hỏi chính trị nào.
2.- Con số cam kết sơ khởi là 3,25 tỷ Dollars viện
trợ không hoàn lại trong vòng 5 năm. Những hình thức viện trợ khác (viện trợ
phát triển kinh tế) sẽ được nghiên cứu sau.
3.- Công việc điều hành kế hoạch viện trợ sẽ do một
Ủy Ban được đặt tên là Ủy ban hỗn hợp kinh tế Hoa Kỳ-Bắc Việt. Ủy ban sẽ được
hình thành trong vòng 30 ngày sau khi ký Hiệp Định.
4.- Chức năng của Ủy ban này sẽ là đề ra các
chương trình cho việc đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại ở Bắc Việt
Nam. Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ tiến hành trên cơ sở những yếu tố sau đây:
a/ Các nhu cầu của Bắc Việt Nam do những tàn phá của
chiến tranh gây nên.
b/ Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến
tranh trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt
Nam.
5.-) Ủy ban hỗn hợp kinh tế sẽ gồm những đại diện
ngang nhau của mỗi bên. Ủy ban sẽ thỏa thuận về một bộ máy để quản lý chương
trình đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại Bắc Việt Nam. Ủy ban sẽ cố
gắng hoàn thành sự thỏa thuận này trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập.
6.- Hai thành viên của Ủy ban sẽ hoạt động trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Những trụ sở của Ủy ban sẽ đặt tại một nơi sẽ
được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
7.- Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện những nguyên tắc
nói trên sẽ thúc đẩy những quan hệ kinh tế thương mại và các quan hệ khác giữa
Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sẽ góp phần vào việc bảo đảm một nền hòa
bình vững chắc và lâu dài ở Đông Dương. Những nguyên tắc này phù hợp với tinh
thần của Chương VIII của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam ký tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.
Điều ghi chú về những hình thức viện trợ khác:
Về những hình thức viện trợ khác, việc nghiên cứu
của Hoa Kỳ cho thấy rằng những chương trình thích hợp có thể là vào khoảng 1 đến
1,5 tỷ đô la tùy theo nhu cầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về lương thực và hàng hóa khác.
Hiểu biết về Chương trình xây dựng lại kinh tế:
Có sự hiểu biết là những đề nghị của ủy ban hỗn hợp
kinh tế nói trong công hàm của Tổng Thống gửi Thủ Tướng sẽ do mỗi thành viên thực
hiện theo những quy định của Hiến Pháp của mình” (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương
Lượng Lê đức Thọ-Kissinger Tại Paris)”.
Tại sao cả hai bên đều không thi hành mật ước?
Như vậy những gì hai bên thương lượng với nhau suốt
4 năm không nằm trong Hiệp Định, mà nằm trong Mật ước. Và hai bên ký với nhau
Hiệp Định Paris chỉ là che mắt thế gian, còn Mật ước mới là kết quả thương lượng
thực giữa hai bên.
Khoan nói tới hai bên đã mật cam kết với nhau những
gì, nhưng tại sao lại không giữ lời giao ước ? Đây là một giao ước mật chứ
không phải là giao ước công khai. Một khi giao ước mật được ký kết thì phải được
tôn trọng tuyệt đối, gần như là lời thề thiêng liêng. Nếu có một bên phản bội
thì bên kia chỉ cần tung mật ước ra trước ánh sáng thì bên vi phạm sẽ trở thành
kẻ lừa đảo.
Mãi đến ngày 19.5.1977 Tổng Thống Hoa Kỳ Cater mới
loan báo rằng sau khi ký Hiệp Định Paris 1973, Tổng Thống Nixon đã có ký với Hà
Nội một mật ước riêng. Trong đó cam kết bồi thường 4,75 tỷ USD cho Hà Nội.
Sau loan báo của Tổng Thống, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên
bố đó chỉ là lời hứa của người đứng đầu cơ quan hành pháp Hoa Kỳ, cho nên quốc
gia Hoa Kỳ không có trách nhiệm phải thi hành cam kết đó. Vì vậy dư luận hiểu rằng
chính phía Hoa Kỳ đã không thi hành đúng như cam kết, nghĩa là sau Hiệp Định
Paris Hoa Kỳ không chung cho Hà Nội một đồng nào trong số 4,75 tỷ.
Vấn đề được đặt ra là tại sao Nixon lại không thi
hành những điều mà ông nhân danh Tổng Thống Hoa Kỳ để viết ra ? Trong khi đó Hà Nội cũng không
đưa mật ước ra để tố cáo Nixon thất hứa ? Nhất là khi Nixon còn tại chức ? Đặc
biệt theo như nhân dân Hoa Kỳ được biết
một cách không chính thức thì Hoa Kỳ chỉ phải chung cho Hà Nội 3,25 tỷ đô la mà
thôi, tại sao giờ đây chính phủ Cater lại loan báo là 4,75 tỷ.
Còn về phía Hà Nội tại sao họ cứ một mực tố cáo
Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp Định mà không công khai hay bán công khai tố cáo
Nixon không giữ lời hứa về số tiền tái thiết Bắc Việt ? Nhất là khi Nixon còn tại
chức ?
Chìa khóa giải mã
Năm 1998 chính phủ cộng sản Việt Nam (Phan văn Khải)
đã cho công bố toàn bộ biên bản các cuộc mật đàm giữa Lê đức Thọ và Kissinger bằng
một cuốn sách của Đại Tá cộng sản Việt Nam Lưu văn Lợi, ông là chuyên gia
thương thuyết trong phái đoàn Hà Nội tại Paris. Cuốn sách có tựa đề là “Các Cuộc
Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris”, sách xuất bản tại Hoa Kỳ
năm 1998 nhưng phổ biến hạn chế, đặc biệt không cho lưu hành trong nước.
Đến tháng 10 năm 2002 nhà xuất bản “Công an Nhân
dân” mới in lại và xuất bản trong nước. Trong chương cuối có đăng nguyên văn bản
mật ước Nixon-Phạm văn Đồng, được Nixon ký ngày 1.2.1973, nghĩa là 4 ngày sau
khi hai bên ký kết Hiệp Định Paris.
Bản mật ước gồm có 7 mục, trong đó 3 mục đầu quy định
thể thức chi trả 3,25 tiền bồi thường chiến tranh và 4 mục sau quy định thể thức
viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội, bước đầu là 1,5 tỷ hàng hóa và lương thực
(viện trợ với lãi xuất ưu đãi). Cơ quan điều hành hệ thống viện trợ bồi thường
chiến tranh của Hoa Kỳ tại Hà Nội sẽ được thành lập xong trong vòng 30 ngày sau
khi Hiệp Định Paris được ký kết. Và hệ thống sẽ đi vào hoạt động trong vòng 60
ngày sau khi được thành lập, nghĩa là đồng đô la viện trợ đầu tiên sẽ đến Hà Nội
1 tháng sau khi người tù binh Hoa Kỳ cuối cùng đã được thả (Tù binh được thả
trong vòng 60 ngày).
So sánh thời gian trao trả tù binh và thời gian bắt
đầu chung viện trợ thì có thể kết luận được rằng ”Nếu Hà Nội thả hết 391 tù
binh Hoa Kỳ xong rồi thì Hoa Kỳ mới thưởng
bằng tiền viện trợ” Đây là lời hứa của bên chiến thắng: Hà Nội phải thả hết tù
binh vô điều kiện, thả xong tới người cuối cùng một cách vui vẻ thì mới được
chung 4,75 tỷ. (Thường thì giao ước bồi thường và trao trả tù binh được thực hiện
trên nguyên tắc: Đồng tiền đầu tiên được đưa ra cùng với người tù đầu tiên được
thả, và đồng tiền cuối cùng được đưa ra cùng với ngày người tù binh cuối cùng
được thả. Thêm một bằng chứng chứng minh Hà Nội đã đầu hàng sau cuộc dội bom).
Vậy thì ai đánh lừa ai ?
Sự kiện tù binh phải được thả hết trước khi Hà Nội
nhận được viện trợ chứng tỏ Hoa Kỳ không có lý do gì để sợ Hà Nội phản bội mật
ước. Có chăng là Hà Nội sợ Hoa Kỳ lấy xong tù binh rồi quỵt nợ không chung tiền.
Và thực tế xảy ra đúng như vậy, Nixon lấy được toàn bộ tù binh nhưng không
chung được 1 đồng như đã hứa. Cái gì khiến cho Nixon và Kissinger trở thành những
tay lừa đảo hạng bét ?
Người ta xem lại biên bản từng cuộc mật đàm để
truy nguyên hoàn cảnh phát sinh ra bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng. Hóa ra ban
đầu, trước trận thả bom 12 ngày đêm thì mật ước đã được soạn trước nhưng chỉ có
3 mục đầu, nghĩa là bồi thường 3,25 tỷ. Số tiền này đã được thông báo cho Quốc
Hội Hoa Kỳ.
Nhưng sau khi Hà Nội thiếu điều kéo cờ trắng trong
cuộc dội bom 12 ngày đêm thì hai bên mới ngồi lại và thêm vào 4 mục sau, có
thêm 1,5 tỷ viện trợ lương thực và hàng hóa (Đây là số tiền cho vay để phát triển
kinh tế chứ không phải là viện trợ nhân đạo không hoàn lại). Đồng thời có thêm
một kế hoạch viện trợ phát triển kinh tế về lâu về dài cho Bắc Việt.
So sánh mật ước 3 mục (trước cuộc dội bom) với mật
ước 7 mục (sau cuộc dội bom) thì sau cuộc dội bom Hà Nội đã được Nixon thưởng
thêm bằng cam kết sẽ viện trợ phát tiển kinh tế cho Hà Nội như là viện trợ cho
một nước đồng minh, giống như viện trợ cho Nam Hàn sau Hiệp Ước Bàn Môn Điếm
hay viện trợ cho Sài Gòn sau Hiệp định Genève.
Suy ra Hà Nội đã âm thầm trở thành đồng minh của
Hoa Kỳ sau cuộc dội bom, nghĩa là thay vì đầu hàng thì Hà Nội đã xin hồi chánh.
Đầu hàng là buông súng và chịu mọi sự phán xét của
kẻ thù, còn hồi chánh là ly khai với phe cọng sản và trở thành đồng minh của
phe tự do. Lê Duẩn quyết định hồi chánh thì có lợi cho Bắc Việt nhiều hơn so với
đầu hàng. Ông ta có quyền ly khai khỏi phe cộng sản bởi vì Trung Quốc và Liên
Sô đã phản bội ông ta trước.
Còn nếu như ông ta đầu hàng thì không có ai giúp
ông hồi phục kinh tế sau chiến tranh mà trái lại ông còn giữ nguyên quyển sổ nợ
chiến phí của Liên Sô và Trung Quốc. Vả lại chạy theo Mỹ thì tất cả dân Việt từ
Nam chí Bắc đều hoan hô ông, còn như tiếp tục chạy theo hai đàn anh đểu cáng là
Trung Quốc và Liên Sô thì dân tộc mãi mãi trong tăm tối và đói khát như Bắc Hàn
hay Cu Ba ngày nay.
Tại sao không bắt Hà Nội đầu hàng mà lại cho hồi chánh
?
Ngay từ những ngày đầu có cuộc mật đàm
Kissinger-Lê đức Thọ thì Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên cho phép Kissinger có quyền
bỏ tiền ra lấy tù binh trở về. Vấn đề là Kissinger trình diễn làm sao cho việc
chung tiền không có vẻ là Hoa Kỳ bại trận. Vì vậy Nixon vẫn hợp pháp khi
Kissinger soạn ra tờ “Mật ước 3 điểm” hứa chung 3,25 tỷ cho Hà Nội. Số tiền đã
được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ và ngay cả dân chúng Hoa Kỳ cũng được biết một
cách không chính thức.
Thế nhưng 4 mục sau (cam kết thiết lập hệ thống viện
trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội) là một việc làm phi pháp, bởi vì không xin phép
Quốc Hội Hoa Kỳ, “lén thỏa thuận với đối phương”. Vả lại viện trợ kinh tế dài hạn
chỉ được dành cho quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ chứ không thể nào dành cho ”kẻ
thù”.
Ngoài ra những đối thủ của Nixon trong Đảng Dân Chủ
cũng có thể cáo buộc rằng cái giá để lấy tù binh trở về là công cuộc viện trợ
phát triển kinh tế cho Hà Nội. Cũng là phạm pháp vì không xin phép Quốc Hội,
nhưng nếu có xin phép thì Quốc Hội cũng sẽ bác bỏ bởi vì viện trợ kinh tế chỉ
được cung cấp cho các quốc gia đồng minh trong khi Hà Nội đang là quốc gia thù
địch.
Sự kiện Nixon lẫn Hà Nội giữ kín tờ mật ước cho tới
1977 chứng tỏ ngày đó hai bên đồng thỏa thuận “Hà Nội bí mật hồi chánh”. Hà Nội
có quyền ly khai khỏi thế giới cộng sản là do Trung cộng và Liên Sô tráo trở, cả
hai đã ngưng cung cấp vũ khí để buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh và trả tù
binh cho Hoa Kỳ.
Thế nhưng tại sao Nixon lại giấu nhẹm tin Hà Nội hồi
chánh ? Câu trả lời rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận bởi vì mối thù giữa
Hà Nội và nhân dân Hoa Kỳ đang còn nóng hổi, Quốc Hội và dân chúng Hoa Kỳ muốn
Hà Nội phải đầu hàng chứ dứt khoát không có chuyện Hà Nội tự nhiên trở thành đồng
minh của Hoa Kỳ mà chẳng phải trả giá cho tội lỗi của họ.
Vậy thì tại sao Nixon không buộc Hà Nội phải đầu
hàng đúng theo ước vọng của dân chúng Hoa Kỳ ? Câu trả lời là Trung cộng và
Liên Sô sẽ không chấp nhận. Họ đã thỏa thuận trói tay Hà Nội để Hà Nội ngưng
theo đuổi chiến tranh chứ không phải để cho Hoa Kỳ tha hồ đánh Bắc Việt đến nỗi
phải đầu hàng. Thế giới sẽ nguyền rủa hai đàn anh đểu cáng.
Nếu Hà Nội đầu hàng vì trận dội bom 12 ngày đêm
thì đương nhiên Liên Sô và Trung cộng sẽ công bố cho thế giới biết rằng trong
năm 1972 đích thân Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để năn nỉ họ thôi viện trợ
vũ khí cho Hà Nội để Hà Nội chấm dứt mộng theo đuổi chiến tranh, đem lại hòa
bình cho nhân dân Việt Nam và cho toàn thế giới chứ họ không ngờ là Hoa Kỳ đã lợi
dụng việc này để tấn công buộc Hà Nội phải đầu hàng.
Hậu quả chắc chắn sẽ kéo theo sự căng thẳng trở lại
giữa Hoa Kỳ và thế giới cọng sản. Và dư luận thế giới sẽ coi Hoa Kỳ như là một
kẻ tráo trở vô liêm sỉ, bởi vì rõ ràng là Hoa Kỳ đã bị cộng sản Việt Nam đánh bại
nhưng lại năn nỉ Liên Sô và Trung cộng trói tay Hà Nội để Hoa Kỳ tiếp tục hạ gục
Hà Nội.
Vì vậy mà Nixon đã không kịp trở tay khi nghe Hà Nội
đề nghị hồi chánh, ông chỉ còn có nước bí mật giúp đỡ Hà Nội dưới hình thức viện
trợ bồi thường chiến tranh. Sau đó là hiệp thương trao đổi hàng hóa giữa hai miền
Nam Bắc (theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Cuối cùng là tổng tuyển cử
lựa chọn chế độ (Cũng theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Dự trù đến lúc
tổng tuyển cử thì Hà Nội sẽ sắp xếp cho dân miền Bắc bỏ phiếu quyết định theo
chế độ tự do. Lúc đó Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa sẽ không nói gì được. Và nhân dân
Hoa Kỳ không thể nào từ chối.
*(Ghi chú: Thực ra bức mật thư đã được Hà Nội tiết
lộ dần dần cho các dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ từ năm 1975 nhưng những người này đã
nhém đi vì không muốn chung tiền cho Hà Nội. Họ viện lý do Hà Nội đã không thi
hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris:
Tháng 12 năm 1975 phái đoàn của Hoa Kỳ do Dân Biểu
Montgomery dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
Ngày 15.1.1976 phái đoàn do Thượng Nghị Sĩ
McGovern dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
Ngày 14.4.1976, báo Nhân Dân của Hà Nội đăng một
phần Mật ước với lời công kích chính phủ Mỹ (Đăng 3 điều đầu, giấu 4 điều sau).
Ngày 3.5.1977, Phái đoàn đàm phán bình thường hóa
quan hệ giữa cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ tại Paris do Holbrooks dẫn đầu đã được
thứ trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phan Hiền cho xem.
Ngày 6.5.1977, báo Nhân Dân của Hà Nội cho đăng một
phần Mật ước và một phần Công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng cùng với lời chỉ
trích chính phủ Mỹ “chà đạp luật pháp quốc tế”. Dân Biểu Hoa Kỳ Lester L.Wolff
đòi đưa Nixon ra tòa nếu Nixon không đưa ra bản Mật ước.
Ngày 14.5.1977 Nixon viết thư trả lời Wolff rằng
chẳng có cam kết viện trợ nào cả.
Ngày 19.5.1977, trước sức ép của Wolff, chính phủ
Cater loan báo ngày 1.2.1973 Nixon có ký một Mật ước với Hà Nội với con số 4,75
tỷ USD (nghĩa là cho lộ luôn 4 điều sau mà Hà Nội đã giấu).
Ngày 21.5.1977 bộ ngoại giao Hà Nội cho công bố
toàn văn Mật ước của Nixon và công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng).
ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & NGUYỄN
VĂN THIỆU
Năm 1973, ngày 8.1, sau trận dội bom Mùa Giáng
Sinh, Hòa đàm Paris được nối lại, mở đầu phiên họp là bài diễn văn của Lê đức
Thọ, ông ta công kích Hoa Kỳ lật lọng leo thang chiến tranh. Kissinger không
còn vui vẻ hoạt bát như các cuộc họp trước. Buổi chiều hai bên tiếp tục soạn thảo
những chi tiết của văn bản hiệp ước mà trước đây đã bị bỏ dở.
Ngày 9, 10, 11 và 12.1, hai bên hoàn thành văn bản
của hiệp ước bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Buổi chiều Kissinger và Sullivan họp
với đoàn đàm phán Việt Nam Cộng Hòa để thông báo nội dung toàn bộ văn bản Hiệp
Định. Vấn đề còn lại là Tổng Thống Thiệu có chấp thuận hay không.
* Chú giải: Đoạn tường thuật trên đây được ghi lại
trong biên bản của bộ ngoại giao Hà Nội, do Lưu văn Lợi công bố năm 1998. Đọc
qua đoạn biên bản này không ai có thể ngờ rằng đây là một cuộc họp sau cuộc dội
bom Hà Nội 12 ngày đêm của Hoa Kỳ.
Hẳn nhiên là phải có nhiều biến cố và nhiều thượng
lượng đã xảy ra sau khi cuộc dội bom vừa chấm dứt. Thế nhưng biên bản buổi họp
được ghi lại như không hề có gì xảy ra. Chứng tỏ Lưu văn Lợi đã buộc phải giấu
kín những trao đổi đã xảy ra giữa Kissinger và Lê đức Thọ trước khi hai ông bước
vào phiên họp ngày 8.1.1975, tức là từ ngày ngưng ném bom 29.12.1972.
Những giấu kín đó đã làm tốn rất nhiều giấy mực của
những nhà nghiên cứu thời cuộc, người ta cho rằng Hà Nội đã chịu đầu hàng trước
khi cuộc dội bom chấm dứt. Điều này sẽ được đưa ra ánh sáng 5 năm sau cái chết
của Kissinger.
Năm 1973, ngày 14.1, Tướng Alexander Haig đến Sài
Gòn với tối hậu thư của Nixon cam kết ”Chúng tôi sẽ không nhìn nhận quyền có mặt
của quân đội ngoại quốc nào trên mãnh đất miền Nam. Chúng tôi sẽ phản ứng mãnh
liệt trong trường hợp Hiệp Định bị vi phạm…”, “…Tôi quyết định sẽ tiếp tục viện
trợ đầy đủ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa”. Tối hôm đó họp Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia, Tổng Thống Thiệu trình bày nội dung tối hậu thư của Nixon. Đa
số mọi người đồng ý nên ký vào vì đã có cam kết Mỹ sẽ tham chiến trở lại để đổi
lại việc quân Bắc Việt có thể vi phạm hiệp ước.
Ngày 17.1, Tổng Thống Thiệu gửi thư phúc đáp cho Tổng
Thống Nixon trong một phong bì dán kín và nhờ Haig chuyển về cho Nixon khi đến
Hoa Kỳ. Nhưng Haig về đến Tòa Đại Sứ thì xé phong bì để chuyển bằng diện tín về
Washington. Trong thư Thiệu cho biết cần một cam kết rõ ràng hơn nhằm bảo đảm
cho việc ông ta chấp nhận quân Bắc Việt ở lại miền Nam (Hồi ký của Alexander
Haig).
Ngay đêm đó, trong lúc Haig còn ở tại Sài Gòn, Đại
Sứ Bunker chuyển đến Tổng Thống Thiệu một điện văn của Nixon, cho biết sau ngày
ký hiệp ước, dự trù vào ngày 27.1, Phó Tổng Thống Agnew sẽ đến Sài Gòn với một
bản mật ước của Tổng Thống Nixon, trong đó nêu rõ ba vấn đề:
1.- Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính
phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam.
2.- Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân
ngoại quốc trên lãnh thổ của miền Nam.
3.- Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản Hiệp Định
bị vi phạm. Ngoài ra: ”Tôi muốn được hội kiến riêng với ngài ba hay bốn tuần
sau ở tại San Clements, California để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp
tác giữa hai nước, và sự cam kết của Hoa Kỳ” (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh
Độc Lập).
Trên nguyên tắc, đây cũng là điều kiện để hình
thành Hiệp Định, nếu không có điện thư cam kết đó thì Tổng Thống Thiệu đã không
ký vào Hiệp Định. Nguyên bản bức điện văn được Nguyễn Tiến Hưng đưa lên sách
The Palace File, bản tiếng Việt trang 663. Vì vậy sau này cựu Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu đã hết lời nguyền rủa Hoa Kỳ bội ước.
Không phải Tổng Thống Nixon chủ tâm lừa đảo, sở dĩ
ông mạnh dạn viết bức điện cam kết đó là vì Hà Nội đã đầu hàng. Không thể nào
có chuyện Hà Nội gây chiến trở lại, họ không còn súng đạn, không còn gạo, và
đang cần tiền viện trợ tái thiết của Hoa Kỳ (Tiến bồi thường chiến tranh).
Không ngờ là sau này tình thế đã biến chuyển khác hẳn với những toan tính của
Nixon và Kissinger.
Năm 1973, ngày 16.1. Tài liệu của CIA: ”Ngày 16/1
Haig đến Sài Gòn với một thư tay khác của Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu rằng nếu
vẫn không ký ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản hòa
bình. Thiệu vẫn hoãn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.
Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn
Nhất, Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho Hội
Đồng nghe. Sau đó Hội Đồng bàn về cung cách thi hành hiệp định. Việc ký kết đến
đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng “trong thâm tâm Thiệu biết trước sau
cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ, nhưng ông đã làm những gì cần thiết có lợi cho sự tồn
tại của Nam Việt Nam.”
Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia thông báo quyết định ký. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương khóc nói rằng Nam Việt
Nam đang ở trên một chiếc gậy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa, và
ký Hiệp Định thì tai họa nhỏ hơn. Sau khi Hương dứt lời, Thiệu nói đồng ý với sự
miêu tả của Hương (CIA and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam).
Theo như đoạn tài liệu này của CIA thì Haig đến
Sài Gòn ngày 14 rồi trở lại Hoa Kỳ, sau đó ngày 16 mới trở lại với thư cam kết
của Tổng Thống Nixon. Nhưng thực ra theo hồi ký của Haig thì thay vì đem thư của
Thiệu về Hoa Kỳ thì ông và Bunker đã mở thư (do lệnh của Nixon) và chuyển bằng
điện về cho Nixon. Rồi Nixon gởi lại thư cam kết bằng điện cho Bunker để Bunker
chuyển cho Thiệu.
Tài liệu của CIA ngày đó có hơi khác so với hồi ký
của Tướng Haig, sự thực là Haig đã mở thư tại Sài Gòn và nhận điện thư của Nixon
rồi đem đến cho Thiệu chứ không có về Hoa Kỳ. Haig và Bunker không cần phải cho
CIA biết chuyện này. Do đó đoạn tài liệu này của CIA chỉ là nhờ thâu thập qua
thông tin của Trần Thiện Khiêm, nhưng Khiêm không hề biết là Haig không có về
Hoa Kỳ.
Đây mới chỉ là bức điện thư báo trước, coi như bản
nháp của mật ước, còn mật ước có chữ ký của Nixon sẽ được Phó Tổng Thống Hoa Kỳ
Agnew đem đến Sài Gòn sau khi Hiệp Định ngưng bắn được ký kết.
Ký kết hòa ước
Năm 1973, ngày 23.1, lúc 10 giờ 45 sáng, bản Hiệp
Định Paris 1973 được Kissigner và Lê đức Thọ ký tắt. Sau khi ký xong hai ông
trao đổi cho nhau cây viết để làm kỷ niệm.
Năm 1973, ngày 27.1, buổi sáng, 4 bên tham chiến
cùng ký kết Hiệp Định có liên quan đến 4 bên, gồm có Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
William Rogers, Ngoại Trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng
Hòa Trần Văn Lắm, và Đại diện mặt trận giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Bình. Buổi
chiều Hoa Kỳ và Hà Nội ký vào văn kiện thứ hai có liên quan tới sự kết ước giữa
hai bên.
* Chú giải:
Dư luận Hoa Kỳ đối với Nixon: Báo Washington Post:
”Chúng ta biết ơn Nixon vì ông đã thực hiện lời hứa chấm dứt chiến tranh trong
vòng 4 năm”.
Báo Boston Herald Traveler: “Nó tốt hơn nhiều so với
một cuộc đầu hàng hèn nhát mà một số người Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận”.
Báo Walstreet Journal: ”Ông đã rút 550 ngàn quân
ra khỏi Việt Nam và đem được tù binh trở về mà không mất chế độ Sài Gòn…Kẻ địch
đã hiểu rằng xương sống của người ngồi trong Tòa Bạch Ốc được làm bằng thép…”
Báo Cleverlnad Plain Dealer: “Ván bài quốc tế của
ông đã có kết quả trước mọi thứ áp lực ở trong cũng như ngoài nước. Đây là giờ
phút oanh liệt nhất của vị Tổng Thống thứ 37 của chúng ta”.
Theo ghi chép của Hadleman thì sau khi xem các bài
báo đó, Nixon có nhận xét rằng chưa có ai nói đúng về ông ta, đó là ”có bản
lĩnh và kiên trì”.
Bí mật đằng sau Hiệp Định:
Hiệp Định gồm có 9 khoản, trong 9 khoản có 23 điều.
Nội dung của 9 khoản, 23 điều cho thấy trong 4 năm đàm phán hai bên chỉ thương
lượng với nhau về 3 mục là (1) Mỹ rút quân (2) Hà Nội trả tù binh (3) Mỹ bồi
thường chiến tranh. Tuy nhiên chuyện Mỹ rút quân là do Nixon tự quyết định rút
quân về để thay thế bằng quân Việt Nam Cộng Hòa chứ không phải là do kết quả điều
đình. Như vậy chỉ còn 2 vấn đề mà người ta phải hẹn nhau đến Paris để thương lượng
trong 4 năm là Hà Nội trả tù binh và đòi bồi thường chiến tranh.
Nhưng vấn đề trao trả tù binh Hoa Kỳ và tiền bồi
thường chiến tranh chỉ được đưa ra sau khi cả Trung cộng và Liên Sô đều thông
báo cho Hà Nội là họ muốn Hà Nội chấm dứt chiến tranh. Lúc đó Lê Duẩn có muốn
đánh tiếp cũng không có gạo, không có đạn để đánh. Do đó chỉ cần 2 cuộc họp
cách nhau 2 tháng thì Hà Nội đã đưa ra toàn bộ các điều kiện của họ: Tức là thả
tù binh Hoa Kỳ vô điều kiện, không đòi thay thế chế độ Thiệu, không đòi thả 38
ngàn tù chính trị cọng sản miền Nam, không buộc Hoa Kỳ phải ghi điều khoản bồi
thường chiến tranh vào trong Hiệp định đình chiến v.v…Dĩ nhiên là Nixon nợ Liên
Sô và Trung cộngvề sự nhượng bộ này.
Nội dung 9 khoản ghi trong Hiệp Định cho thấy
không cần phải tốn tới 4 năm mới có được văn bản của hiệp định:
Khoản 1: Các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Dĩ
nhiên Kissinger và Lê đức Thọ không phải thương lượng với nhau về chương này,
chỉ cần sao lại chương 1 của Hiệp Định Genève).
Khoản 2: Chấm dứt chiến sự, rút quân. Chương này
dành cho chuyên viên kỹ thuật, ấn định ngày giờ ngưng bắn, thời hạn rút quân,
dĩ nhiên hai ông cũng không thương lượng với nhau về mục này.
Khoản 3: Việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt.
Đây mới là mục chính yếu để thương lượng nhưng tránh không nói tới chữ “trao trả
tù binh” mà nói là trao trả nhân viên quân sự bị bắt.
Khoản 4: Việc thực hiện quyền tự quyết của dân tộc
Việt Nam (Dĩ nhiên vấn đề này cũng không cần thương lượng, chỉ cần sao lại Hiệp
Định Genève).
Khoản 5: Vấn đề thống nhất Việt Nam. Không cần
thương lượng, chỉ cần nói rằng theo như Hiệp Định Genève 1954 là xong.
Khoản 6: Ủy ban kiểm soát đình chiến. Cũng không cần
thương lượng, việc này cũng chỉ giao cho các chuyên viên quân sự.
Khoản 7: Đối với Cam Bốt và Lào. Cũng ghi theo như
Hiệp Định Genève là xong.
Khoản 8: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và cộng sản Bắc Việt.
Đây mới là vấn đề chính, nghĩa là ai phải chung cho ai và chung bao nhiêu.
Khoản 9: Các quy định khác: Hiệp định có hiệu lực
sau khi ký./.
Vậy thì chỉ cần xem lại khoản 3 và khoản 8 có 3 điều
chính yếu:
Điều 5 (Thuộc khoản 3): Trong thời hạn 60 ngày kể
từ khi ký hiệp định này sẽ hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội,
cố vấn quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình vũ khí, đạn dược
và các dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác…
Điều 8 (Thuộc khoản 3): Việc trao trả những nhân
viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ
tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân
nói trong điều 5.
Điều 21(Thuộc khoản 8): Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định
này sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như với
các dân tộc Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng
góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công việc xây dựng sau chiến
tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông Dương.
Tóm tắt 9 khoản, 23 điều của Hiệp Định thì người
ta thấy ngay sự phi lý: Ngưng bắn da beo, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tồn
tại, 38.000 cán bộ dân sự cộng sản miền Nam vẫn bị giam trong các trại tù.
Trong khi đó tù binh cộng sản Bắc Việt, tù binh Việt Nam Cộng Hòa và tù binh
Hoa Kỳ được thả, Hoa Kỳ không phải trả tiền bồi thường chiến tranh nhưng: ”Hoa
Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết sau
chiến tranh”. Như vậy công lao chiến đấu của cộng sản Việt Nam từ 1959 tới 1973
coi như bỏ đi, họ không được một tí lợi nào cả ?
Nếu Hà Nội sáng suốt thì bắt phải ghi rõ con số
3,25 tỷ vào điều khoản 21 và ấn định lịch trình trao đổi, hễ đưa bao nhiêu thì
thả bấy nhiêu, đưa tới đồng Dollar cuối cùng thì thả người cuối cùng. Dĩ nhiên
một khi đã ghi con số và lịch trình trao đổi thì đến khi Quốc Hội Hoa Kỳ biểu
quyết thông qua Hiệp Định sẽ phải ký thêm một đạo luật chuẩn chi ngân sách đính
kèm. Phải chăng Lê đức Thọ đã bị lừa ?
Vì không tin là Lê đức Thọ bị lừa cho nên những
nhà quan sát thời cuộc thừa hiểu rằng đằng sau Hiệp Định phải có một mật ước
riêng giữa hai bên, trong đó sẽ quy định rõ con số bồi thường chiến tranh cũng
như thể thức thanh toán.
Còn về phần Quốc Hội Hoa Kỳ thì họ không có lý do
gì để từ chối một hiệp định công khai, hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ, nghĩa là chấm
dứt chiến tranh, đem được tù binh trở về mà không tốn một đồng nào cả.
Trần Không Tên