Đọc "Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười"
Thơ Trần Trung Đạo
- Châu Thạch
Trần Trung Đạo |
đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười
Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Trần Trung Đạo
Có người không tâm đắc với cai đầu đề bài thơ là “Đổi cả thiên
thu tiếng mẹ cười” vì cho rằng làm chi ai có được thiên thu để đổi tiếng mẹ cười,
và dẫu tác giả sống được 1000 năm chăng, thì có chịu chết đi để nghe tiếng mẹ cười
hay không? Lấy cái không có mà đổi cái có thì chỉ là nói cho vui cửa miệng mà
thôi. Đúng thế nếu hiểu theo một cách thực dụng.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại.
Đọc thơ thì phải biết ngôn ngữ thơ có khác, mới hiểu được hết cái hay tiềm ẩn
trong từng câu, từng chữ của thơ.
Ông bà ta có câu “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” hiểu
là một ngày ở trong tù dài như ngàn năm ngoài đời. Vậy thì một ngày hay một ngàn
năm ở đây đều là thời gian tâm lý, không phải thứ thời gian mà chúng ta sống bằng
hít, thở. Nếu nói một ngày bằng một ngàn năm thì ngàn năm là thời gian tâm lý,
ngược lại nói ngàn năm bằng một ngày thì một ngày là thời gian tâm lý. Cũng thế,
nhà thơ Trần Trung Đạo dùng chữ “thiên thu” cho cái đâu đề “Đổi cả thiên thu tiếng
mẹ cười” cũng là thời gian tâm lý. Thời gian tâm lý thì tuỳ theo tâm trạng của
mỗi người, mỗi hoàn cảnh nên chữ “thiên thu” ở đây không tính bằng năm, tháng được,
chỉ biết là nó lâu dài đối với tác giả mà
thôi.
Cũng xin bàn thêm đôi chút về chữ “thiên thu”. Ta biết một năm
có 4 mùa. Mùa xuân là mùa vui nhất nhưng không phải là đẹp nhất. Mùa thu mới là
mùa đẹp nhất vì nó bình tịnh và an lạc. Ở đây nhà thơ dùng chữ “thiên thu” không
phải là 1000 năm của thời gian mà mục đích để chỉ sự bình tịnh, an lạc dài lâu
trong tâm hồn mình, và sự bình tịnh an lạc đó ông sẳn sàng chịu mất đi để đổi lại
nghe được tiếng mẹ cười, nghĩa là biết được mẹ mình đang hạnh phúc. Vì thế nhà
thơ không dùng chữ “thiên niên” mà dùng chữ “ thiên thu” cũng hàm xúc một ý nghĩa
sâu xa.
Bây giờ hãy đi vào vế một của bài thơ:
Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi.
Có ai nghe được tiếng lá thu rơi không? Lưu trọng Lư nghe được
tiếng lá rơi mùa thu: “Anh nghe chăng mùa thu/ Lá thu rơi xào xạc”. Đó là tiếng
lá rơi của cả một khu rừng, còn tiếng mẹ không thể là một khu rừng mà chỉ như là
một chiếc lá rơi thôi. Một chiếc lá rơi thì làm sao nghe được nếu không phải chỉ
là sự rung động trong cõi lòng mình khi nghe âm thanh mẹ nói.
Tác giả dùng chữ “tiếng ai” để chỉ về tiếng Mẹ. Chữ “ai” thông
dụng để chỉ người xa lạ nhưng chữ “ai” cố ý trong văn chương thì lại chỉ người
thân thương nhất. Người thân thương ấy có tiếng nói như “lá thu rơi”. Lá thu rơi
thì nhẹ nhàng, êm ái và buồn vô cùng đối với những tâm hồn nhạy cảm.
Chỉ một câu thơ “ Tiếng ai như tiếng lá thu rơi” thôi, Trần
Trung Đạo đã làm cho một vế thơ vốn khô khan vì kể lể trở nên ướt át, đậm đà và
bàng bạc một nỗi buồn vời vợi vì chất chứa trong đó âm thanh của tiếng mẹ cùng
tiếng lá thu rơi. Khi nghĩ đến “ tiếng lá thu rơi” người đọc liên nghĩ cả một bầu
trời thu và từ đó lại liên nghĩ tiếng nói êm ru của mẹ, dáng dấp âm thầm của mẹ
trong khung cảnh u buồn.
Vế thứ hai của bài thơ
có âm điệu trầm bổng của phong cách thơ thời xưa nhưng hoàn cảnh lại khác nhiều
với những bài thơ nói đến sự chia ly:
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc lối sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Khác chăng là tác giả diễn tả trong vế thơ nầy một sự ra đi
uất ức. “Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề” là một sự ra đi đành đoạn, không hẹn ngày
quay lại. Con ngựa rừng mà lạc lối sơn khê là một sự vô lý. Vậy mà ở đây “Ngựa
rừng xưa lạc lối sơn khê” là có thật. Ngựa mà lạc lối trong rừng mình đang ở thì
nó đang chịu sự xua đuổi, bức bách đến hoản loạn mới phải lạc cả lối đi về quen
thuộc. Ngựa rừng ở đây đã xa mẹ 10 năm và trong mười năm ấy tóc mẹ, lòng con đều
trắng. Tóc mẹ trắng là vì gian khổ, vì tuổi già nhưng lòng con cũng trắng bởi vì
sao? Có người cho rằng chữ “trắng” thứ hai rất phũ phàng, nó cho biết “trắng”
nghĩa là không có chút thương nhớ, không
có chút u buồn nào cả. Không phải thế đâu. Chữ “trắng” thứ hai có thể xem là màu
trắng của một chiếc khăn tang. Khi mẹ chết thì đội chiếc khăn tang trên đầu, nhưng
mẹ chưa chết mà xem như đã biệt ly thì để chiếc khăn tang trắng trong lòng mỗi
khi nhớ mẹ là hình ảnh đau thương sống động. Chữ “trắng” thứ hai diễn tả hết nỗi
trống vắng trong lòng. Trống vắng vì không có tiếng nói của mẹ, không có mùi thơm
của mẹ, không có bất cứ cái gì mà mẹ đã lấp đầy màu sắc tươi đẹp trong lòng tác
giả từ một thuở xa xưa.
Qua vế thơ thứ ba và
thứ tư tác giả như thỏ thẻ với mình và với mẹ:
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Trong vế thơ trên ta thấy hình ảnh “ người song cửa, kẻ chân
mây” trong “Chinh Phụ ngâm” được biến hoá thành một bức tranh ảm đạm sinh động
với hình ảnh người mẹ ngồi “đan một nỗi
buồn” bên song cửa có “gió tạt với mưa tuôn” và người con “đi góp lá nghìn phương”
để “đốt lửa cho đời”. Cũng dùng hình ảnh đó, hình ảnh “kẻ song cửa, người chân
mây” nhưng vế thơ đã làm trùm lên không gian và thời gian không phải là nỗi buồn
sâu lắng có chút thi vị của thời xa xưa mà là trở nên khắc khỏi một nỗi đau của
sự chia lìa mẹ, con.
Qua vế thơ dưới tác giả đã nghe tiếng mẹ “như tiếng chiêm
bao” và muốn vói tay tìm mẹ nhưng “Xa xôi quá làm sao vói tới”. Những tứ thơ nầy
làm cho mẹ trở thành mong manh quá đổi, mà mẹ càng mong manh thì nỗi xót thương
trong ta càng trĩu nặng.
Qua vế thơ thứ năm như sau:
Đừng khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
“ Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ” là đúng, “hơi ấm con tìm
trong giấc mơ” là đúng, nhưng tại sao “Đau thương con viết vào trong lá”? Sao
không nói đau thương con dấu ở trong tim? Viết vào trong lá để làm gì?. Muốn hiểu
câu thơ nầy ta thử đọc một ca khúc trong bài ca “Thu Sầu” của nhạc sĩ lam Phương:
“Trên cao bao vì sao sáng/ Rừng vắng có bao lá vàng/ là bấy nhiêu sầu”. À, hoá
ra nhạc sĩ lam Phương dùng số nhiều của lá vàng để gắn kết nỗi sầu của mình lên
đó. Trần Trung Đạo cũng vậy, ông không chỉ viết đau thương lên lá vàng mà viết đau
thương lên cả lá xanh, nghĩa là trên đời có bao nhiêu lá thì ông có bấy đau thương
vì xa cách mẹ. Một con én có thể làm nên mùa xuân thì một câu thơ cũng có thể làm
lung linh đẹp cả một bài thơ vậy.
Vế chót của bài thơ
là toát yếu bài thơ và tác giả nhấn mạnh suy tư của mình, làm cho bố cục bài thơ
vô cùng chặc chẻ như một bài luận văn mẫu ở chốn học đường:
Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười .
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười .
Ở vế chót nầy tác giả dùng câu “Ví mà tôi đổi thời gian được”
đề bổ nghĩa cho câu “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” dễ làm cho người đọc suy
luận thời gian ở đây là thời gian vật lý, nghĩa là thời gian một ngàn năm có thật.
Điều nầy cũng không có chi là nghịch lý, vì nếu tác giả có được thời gian vật lý
trong tay thì có bao giờ ông đợi được 1000 năm mới chịu đem đổi lấy niềm vui của
mẹ, hay là thời gian tâm lý trong lòng đã thôi thúc ông đi đổi ngay để lấy niềm
vui cho mẹ sưởi ấm lòng ông. Vậy chỉ nên xem nhà thơ dùng thời gian như một thể
“Tỷ” trong ca dao, các ý tứ không nằm trong lời nói mà nằm trong cảm nhận của
con người./.
Châu Thạch