"Ngợm Người" Trong Thơ Thái Quốc Mưu
- Châu Thạch
Thái Quốc Mưu |
Nếu
ai hỏi tôi nhà thơ Thái Quốc Mưu yêu gì và ghét gì nhất, chắc có lẽ tôi không
trả lời được điều yêu nhất, nhưng điều ghét nhất của Thái Quốc Mưu thì qua thơ
ông quá rõ ràng.
Trong
bài thơ khóc Nguyệt Lãng, một trong những người bạn thơ thân nhất của Thái Quốc
Mưu, nhà thơ đã khuyên người quá cố đừng trở lại trần gian chẳng phải vì trần
gian là chốn sinh, lão, bệnh, tử hay điều gì khác mà chỉ vì trần gian là chốn
có nhiều “ngợm người”:
Đừng
nên trở lại nơi trần thế
Một
cõi quanh anh lắm ngợm người
(Khóc
Nguyệt Lãng)
Trong
một lần “Viếng Trời” nhà thơ cũng so sánh sự khác biệt đáng kể nhất giữa cõi
trời và cõi người mà cõi người có lắm “ngợm người”:
Nước
trời trên dưới cùng tôn quý
Khác
với nhân gian lắm ngợm người
(Viếng
Trời)
Vậy
“ngợm người”là gì?
Thật
ra chữ “ngợm người” không tìm ra một định nghĩa chính xác. Tự điển Việt Nam có
sách định nghĩa: “ngợm người” là người ngu dại”; có sách định nghĩa: “ngợm
người” là người, với ý nghĩa xấu nói chung”. Lại có người cho chữ “ngợm” phát
xuất từ chữ “ngựa” nên chữ “ngợm người” là, “nửa ngựa nửa người, nghĩa là người
không ra người mà ngựa chẳng ra ngựa”. Cũng có giải thích “ngợm người” như sau:
“Ngợm là gì? - Ngợm cũng đi bằng hai chân, mặc quần áo, mang hia, đội mão, có
trí tuệ, có tiếng nói, ăn từ thượng vàng hạ cám đến cao lương mỹ vị xuống bắp
luộc khoai nướng nhưng khác con người ở chỗ, con người có thể ăn được đủ thứ
nhưng không bao giờ ăn thịt đồng loại, còn ngợm thì đến thịt đồng loại cũng sẵn
sàng ăn sống nuốt tươi” (Tất nhiên người mà ăn thịt người chỉ nói theo nghĩa
ngụ ý mà thôi).
Như
thế chữ “ngợm người” cũng như chữ “chó má”. “Con chó có thể ăn bẩn nhưng dứt
khoát không ăn thịt đồng loại, còn con má về hình thức giống y như con chó
nhưng đến thịt đồng loại cũng không từ! Có người nghĩ rằng, “ngợm người” là lũ
người “điên” cần phải đi học. Học gì? - Học làm người, học để biết thiên chức
của con người”.
Xem
như thế “ngợm người” hay “người ngợm” quả nhiên không phải người tốt.
Tóm
lại, “ngợm người” để chỉ những kẻ có hình thể, vóc dáng của con người, nhưng
cách sống với đồng loại, chưa đạt được cái bản chất đích thực của CON NGƯỜI, mà
tôi đã đọc trong mục danh ngôn đâu đó câu: “Hãy sống sao cho người ra NGƯỜI”
của Thái tiên sinh.
Ngoài
ra, trong bài thơ Niềm Mơ Ước Vĩ Đại Của Tôi, Thái Quốc Mưu đã viết:
Mặc
ai mơ nước Thiên Đàng
Mặc
ai mơ cõi Niết Bàn xa xôi
Tôi
sinh ra giữa Đất, Trời.
Chỉ
mong làm được CON NGƯỜI – viết hoa.
Theo
Thái Quốc Mưu thì giống động vật mang tên người, khi được “Viết hoa” thành CON
NGƯỜI thì vô cùng khó khăn, lớn lao, vĩ đại, và cao quý hơn tất cả. Nó nằm trên
tất cả những ước mơ – kể cả Thiên Đàng hoặc Niết Bàn. Bởi, khi tất cả giống
người biết tu thân để trở thành CON NGƯỜI được viết hoa, thì xã hội lúc đó đa
số chỉ có những CON NGƯỜI đích thực là NGƯỜI. Họ toàn là bậc chính nhân quân
tử, lương thiện, gắn bó yêu thương,... thì Thiên Đàng hoặc Niết Bàn đã hiện hữu
giữa trần đời, chẳng phải tìm đâu xa. Khi ấy, lũ “ngợm người” không còn đất
dung thân, chẳng thể tồn tại. Sẽ tự diệt.
Bây
giờ qua thơ Thái Quốc Mưu ta thử tìm xem những thành phần nào trong xã hội mà
nhà thơ ghét nhất? Câu trả lời, chính xác nhất, đó là lũ “ngợm người”.
Trong
bài thơ “Trên Chót Đỉnh” Thái Quốc Mưu đứng trên núi nhìn xuống “đời”, ông đã
thấy “lắm lũ loài”. Ông dùng chữ ‘lũ loài” chứng tỏ ông rất ghét hạng người
nầy, đó là hạng người tranh bả lợi danh, giựt dành lợi lộc làm mất cái nhân
tính đích thực của CON NGƯỜI:
Ngó
xuống. Ôi chao lắm lũ loài
Tranh
chấp bả danh nhân tính mất
Giựt
dành lợi lộc hận thù sôi
(Trên
chót Đỉnh)
Cái
bọn người mà bả danh vọng và lợi lộc đã làm cho họ sôi máu hận thù, mất đi nhân
tính đó, đã được nhà thơ gọi đích danh trong bài thơ “Khác Biệt” của ông:
Quan
tham đầu óc như “lì đỗn”
Chỉ
biết thu gom với nhét vào
(Khác
biệt)
Đọc
ngược hai chữ đóng trong ngoặc kép ta thấy Thái Quốc Mưu khinh bọn quan tham
đến cỡ nào.
Và
với Thái Quốc Mưu bọn người ấy không những là phường phi đạo đức, bất tài, bất
nhân, bất nghĩa, tham lam vô tận, lừa bịp, thất học, ngô nghê trước quần chúng;
vậy mà hay lếu láo khoe khoang, vênh váo,... ăn trên, ngồi tróc để lèo lái mọi
việc chẳng khác nào như bác tài vừa dỡ lại ba hoa:
Đạo
đức trống không hay lếu láo
Chân
tài rỗng toác cứ thày lay
(Có
những bác tài)
Nhà
thơ Thái Quốc Mưu không tiếc lời giận dữ điểm mặt bọn người xấu xa trên với lời
lẽ vô cùng cay cú:
Hôm
sớm đem đầu ra đội đít
Trưa
chiều gục mặt để chờ khi
Cong
lưng đổi miếng mồi danh lợi
Ngậm
miệng ăn ba cái bã chì
(Vịnh
ông Táo)
Và
cuối cùng Thái Quốc Mưu không còn nể nang gì nữa và thẳng tay chỉ vào mặt bọn
người mà ông ghét nhất trên trần gian nầy, công bố, vạch trần tội lỗi xấu xa
nhơ nhuốt của họ, lũ “ngợm người” mà từ xưa đến nay thời nào cũng có:
Quan
ôn xưa nay
Phẩm
chất kém - cần sơn, phết, xi
Bằng
cao. dốt rặt mới ly kỳ
Văn
thư nguệch ngoạc run cầy sấy
Chữ
ký loằng ngoằng méo miệng ghi
Quán
nhậu nghênh ngang tuồng hổ, sói
Cửa
quyền hống hách tựa tần, phi
Gặp
thời chồn cáo vươn nanh vuốt
Sớm
tối vênh vênh cái mặt chì.
Vậy
qua thơ ta biết thứ mà nhà thơ ghét nhất trên đời là ai vậy?
Tất
nhiên không phải là những người mang chữ “ngợm” với nghĩa xấu bình thường. Tất
nhiên, đó không phải là người ngu dại; tất nhiên không phải người khuyết tật,
người phạm tội hình sự, kẻ vô tình, vô tâm... Nói chung tất cả những người bị
cho là “người xấu” đó, đều không phải thứ “ngợm người” mà Thái Quốc Mưu muốn đề
cập. Thái Quốc Mưu nói thẳng lũ ngợm người ấy chính là những kẻ ngồi ở ghế quan
lại trên cao mà kém tài, thất đức, bám danh hưởng lợi,...
Qua
thơ Thái Quốc Mưu, bọn “ngợm người” là bọn “Quan ôn” vô lại. Bọn đó làm cho nhà
thơ Thái Quốc Mưu chán chê thế gian nầy đến nỗi ông đã nhắn với người bạn thơ
tri âm của mình:
“Nhớ
bút hãy đùa cùng trăng gió
Thèm
thơ xin nhắn cái thằng tôi”
nhưng,
Đừng
nên trở lại nơi trần thế
Một
cõi quanh anh lắm ngợm người”.
Với
bọn “ngợm người” nầy nhà thơ Thái Quốc Mưu cho rằng đã hết thuốc chửa rồi, cho
nên ông chẳng cần nhắn nhủ khuyên lơn, dạy bảo gì họ cả, mà chỉ lắc đầu bỏ đi,
buông ra cho chúng một câu để nhớ đời:
Chớ
tưởng quyền uy thay trí óc
Đừng
hòng sỏi đá hoá trân châu ./.
(Biển
Đời)
Châu
Thạch