Ba Tôi, Người Đánh Máy Mướn
- Ðoàn Xuân
Thu
Năm 1961, thằng em thứ sáu, vừa lên 5 của tôi, bị viêm màng não
rồi chết. Thân phụ tôi đang làm trưởng ty Bưu Ðiện Rạch Giá buồn bã quá, xin
đổi về Sài Gòn làm ở Bưu Ðiện Trung Tâm gần Vương Cung Thánh Ðường, dắt cả gia
đình chạy trốn một kỷ niệm buồn đau!
Nhà thì chính phủ cho một căn, ở lầu hai cư xá Bưu Ðiện trên đường
Hai Bà Trưng, nằm trong con hẻm lớn, đối diện nhà thờ Tân Ðịnh.
Rồi năm 63, cuộc đảo chánh 1/11 của các tướng lãnh. Tổng
Thống Ngô Ðình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Ðình Nhu bị giết. Cái chết của Tổng
Thống Diệm đã chấm dứt luôn cuộc sống tương đối dễ thở của các công chức bậc
trung. Nhà đông con, vật giá càng lúc càng tăng, con cái ngày một lớn, tiền ăn
tiền quần áo tiền trường đè nặng lên vai Ba. Nên Ba phải làm thêm 'job' nữa.
Ðánh máy mướn!
Vốn xuất thân từ thư ký, sau vừa làm vừa học, thi đậu cải ngạch
thành Cán Sự Bưu Ðiện, Ba đánh máy rất nghề, chỉ nhìn vào văn bản mà không cần
nhìn vào bàn phím chữ. Ðánh bằng mười ngón, tốc độ nhanh, nghe như tiếng rào
rào đổ trên mái tôn. Mưa!
Cuối đường Phan Ðình Phùng, đi về phía Chợ Lớn rồi quẹo tay
phải sang đường Lý Thái Tổ có rất nhiều tiệm Ronéo. Trong tiệm, ngoài giàn máy
Ronéo, còn có vài cái máy đánh chữ, bàn ghế ngồi do chủ tiệm cung cấp. Làm ăn
chia, tứ lục, 6/4.
Muốn in Ronéo, phải đánh trên giấy stencil. Ðó là loại giấy
có tráng sáp để khi đánh, chữ sẽ khắc dấu trên sáp; rồi khi đưa vào máy, mực sẽ
tràn ra phủ đầy trên những dấu lõm. Dán stencil vào máy, rồi quay bằng tay hay
bằng điện. Bài viết sẽ lần lượt được in ra.
Khách hàng đến là các giáo sư mướn đánh máy bài giảng ở
trường đại học, bán “cours” cho sinh viên.
Khách hàng cũng có thể là các nhà văn chuyên viết truyện dài
đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton” như
Dương Hà, An Khê, Ngọc Linh, Sơn Nam... Họ mang những bản thảo viết tay, thường
là khó đọc, đến mướn đánh máy cho rõ ràng để thợ sắp chữ nhà in dễ đọc, dễ sắp
chữ trên bản kẽm rồi in ra thành tiểu thuyết.
Giá cả có khác nhau tùy theo khách hàng thường xuyên như các
giáo sư hay các nhà văn. Ngoài ra cũng có nhận đánh đơn từ các loại.
Mỗi ngày, Ba cỡi chiếc xe đạp đòn dông đi làm theo giờ hành
chánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tan sở lại phải chạy xuống tiệm Toàn Thắng
ở cuối đường Phan Ðình Phùng để làm cái “job” thứ hai.
Khoảng 9, 10 giờ đêm, mệt mỏi, rã rời sau 16 tiếng đồng hồ
làm việc, Ba mới theo đường Phan Thanh Giản, chỉ cho chạy một chiều để quay trở
về Hai Bà Trưng, Tân Ðịnh.
Má vẫn thường chờ Ba cơm tối; còn 8 anh em tôi thì đã đi ngủ
mất rồi. Hôm nào được lãnh lương hoặc đánh máy có tiền nhiều, Ba vẫn thường ghé
qua xe bán bánh mì Tám Cẩu ở ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, gần rạp hát
Ðại Ðồng, mua vài ổ bánh mì về cho con.
Về nhà Ba vô giường, bế từng đứa dậy, đặt ngồi ngoài bàn rồi
bảo: “Ăn đi con!” Ăn thì khoái thiệt nhưng “buồn ngủ” híp con mắt luôn! Em gái
tôi cắn miếng bán mì nhai, chưa kịp nuốt thì gục xuống bàn... ngủ tiếp. Ba lại
bế từng đứa, cho vào giường ngủ.
Người ta thường bảo người mẹ như cánh cò. Cánh cò lặn lội bờ
sông... Ba tôi không phải là cánh cò, Ba tôi là đại bàng nhưng con đông quá,
bám vào đôi cánh của Ba nặng trĩu. Ba không bay cao, bay xa được mà chỉ bay là
đà; nhưng vẫn phải rán mà bay để tìm mồi về cho vợ và con trong thời khốn khó!
Ba chưa từng bao giờ từ bỏ ước vọng là con mình sẽ được ăn
học đàng hoàng, tới nơi tới chốn để cuộc đời chúng nó sau không phải vất vả như
Ba!
Bước ra đời, nếu mình có thành công, có giỏi hơn người khác
thường là bị gièm pha, xúc xiểm, ganh tị... nhưng mỗi thành công dù rất nhỏ
trên trường đời của con thì Ba lại tự hào, hãnh diện coi thành công đó là rất
lớn và là chính của Ba luôn!
Năm 63, tôi thi đậu vào Petrus Ký. Ðỡ cho Ba không phải lo
tiền trường. Vì nếu rớt, phải đi học tư, tốn lắm! Việt Nam lúc đó đậu vào một
trường công lập nổi tiếng như Petrus Trương Vĩnh Ký cho con trai hay Gia Long
cho con gái là rất khó. Trường rất có kỷ luật nên học trò trường công không dám
“cúp cua” đi chơi nên thường học giỏi hơn học trò trường tư dù giáo sư trường
tư lại nổi tiếng dạy hay hơn: Dạy hay hơn nên mới được chủ trường tư mời dạy!
Ngày coi kết quả thi vào Petrus Ký, trời đổ trận mưa to.
Thầy Trường dạy luyện thi đệ thất, có danh sách học trò thi đậu, báo tin vui.
Ba nhường áo mưa cho con, còn mình đội mưa đến. Thầy và Ba bắt tay nhau, hỉ hả
cười rạng rỡ, dù nước mưa còn chảy ròng ròng trên má. Tôi thấy thương Ba quá
trời. Sao mà khổ dữ vậy! Tôi thấy đậu vô đệ thất, cho dù là của một trường
trung học nổi tiếng nhứt miền Nam đi chăng nữa thì có gì là... lớn lao lắm đâu!
Mấy thằng bạn học chung với tôi cũng thi đậu đó thôi.
Rồi khi thi đậu tú tài một, tú tài hai, Ba cũng mừng như
chính Ba thi đậu vậy!
Khi vào đại học, Ba muốn con học Luật Khoa để trở thành luật
sư chẳng hạn... Có lẽ đường hoạn lộ công danh của Ba đã từng bị xui xẻ, bị đối
xử bất công quá hay chăng mà Ba không muốn con mình phải gánh chịu: Phải biết
Luật để cho tụi nó sợ mà không dám áp bức lại mình?
Tôi thì thấy những chồng “cours” là đã “ớn.” Lại phải tốn
rất nhiều tiền để mua nên không muốn đi học Luật; dù trường đó, trên con đường
Duy Tân, thơ mộng và có biết bao nhiêu là con gái, tiểu thơ con nhà giàu chưng
diện, ẹo tới, ẹo lui...
Ba nói một, hai lần thì tôi vẫn giả bộ tảng lờ. Nhưng lần
thứ ba thì con Ba, cái thằng bất hiếu, cứng đầu cãi lại: “Con là con ếch mà Ba
muốn con to bằng con bò! Không được đâu!”
Tôi đã nhẫn tâm làm tan nát niềm ước vọng của Ba tôi rồi; mà tôi
cứ “thản nhiên” như không. Trời ạ!
Sau nầy vào Ðại Học Sư Phạm ra trường, đi dạy, một hôm Ba nói:
“Thôi không làm luật sư, làm giáo sư cũng được!” Dù tôi chỉ là Giáo Sư Trung
Học Ðệ Nhứt Cấp “quèn” mà thôi!
***
Rồi 75 đến, nước mất nhưng nhà tôi nhứt định không tan. Cũng
sống lầm than mà cũng không nghe Ba một tiếng thở than: Ði tù cải tạo sáu tháng
vì là viên chức ngụy quyền, cấp trưởng ty. Trong tù, Ba tôi vẫn ăn mặc một cách
đàng hoàng, tề chỉnh. Ðêm trong trại, Ba xếp quần áo lại, lót dưới gối trên đầu
nằm cho thẳng thớm. Sáng ra, mặc áo bỏ vô quần, mang giày như thuở còn đi làm;
dù mấy thằng cán bộ nhiều lần mỉa mai, phê bình Ba là còn giữ tác phong”tiểu tư
sản”! Ba chỉ nói: “Mình mất nước chớ không mất tư cách!”
Ra tù, Ba lại trở về Sài Gòn, ra Lý Thái Tổ ngồi đánh máy mướn để
nuôi đàn con: đứa thì đi tù vì là sĩ quan Ngụy, đứa thì bị đuổi! Ba vẫn ăn mặc
rất đàng hoàng, vẫn áo trắng bỏ vô quần, vẫn mang giày, dù cũ, ra đánh máy
mướn, làm đơn cho bà con cô bác Sài Gòn đi thăm nuôi chồng, con đang ở tù cải
tạo.
Cuộc sống cực kỳ khốn khó mà Ba vẫn không than van; vẫn
không phiền trách ai đã làm cho mình mất nước!
Bà con ở Hố Nai, có thời đi lính Liên Hiệp Pháp, xuống nhờ
Ba đánh đơn gởi Tổng Thống Francois Mitterrand để xin đi định cư. Là người học
chương trình Pháp, Ba viết thơ giùm họ cảm động làm sao đến nỗi ông chánh văn
phòng của tổng thống hồi đáp ngay, rồi Ba dịch ra tiếng Việt cho bà con nghe
là: “Tổng Thống Cộng Hòa Pháp đã nhận được thơ ông và đã chỉ thị chuyển hồ sơ
qua Bộ Ngoại Giao để hoàn tất tiếp hồ sơ!”. Sau đó cũng có vài gia đình được đi
Pháp định cư.
Có lần ông chủ một cây xăng ở Rạch Giá bị đánh tư sản, bị đuổi đi
vùng kinh tế. Khổ quá, ông trốn về Sài Gòn và gặp lại Ba. Ông vẫn còn gọi Ba là
ông trưởng ty như ngày cũ! Ông nói vì không có hộ khẩu nên không làm được thông
hành và chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ; dù con ông đã gởi đơn về bảo lãnh. Ba lại
giúp ông làm đơn gởi cho bọn công an, bộ phận xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn
Trãi Chợ Lớn và Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thailand. Ðơn thành công và ông được
ra đi! Bùi ngùi từ giã, ông nói: “Tôi đi rồi, không biết chừng nào mới có dịp
gặp lại ông trưởng ty.” Rồi rưng rưng nước mắt, bắt tay chào vĩnh biệt!
Ðọc sử thế giới, tôi nhớ rằng Raoul Wallenberg (1912-1947),
nhà ngoại giao Thụy Ðiển, đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái ở Hungary thoát
khỏi Holocaust, lò hơi ngạt của Phát Xít Hitler trong Thế chiến thứ hai. Ông đã
cấp những thông hành bảo vệ (Schutz-Pass) và cho những người Do Thái ẩn náu
trong những tòa nhà thuộc tòa đại sứ Thụy Ðiển ở hải ngoại. Ngày 17 tháng 1,
1945, Hồng quân Cộng Sản Liên Xô tiến vào Budapest, Hungary bắt ông giam cầm và
ông chết ngày 17 tháng 7, 1947 trong nhà tù Lubyanka ở Moskva. Trái tim vĩ đại
của một con người nhân hậu đã mãi mãi thôi đập nữa!
Chủ Nghĩa Phát Xít và Chủ Nghĩa Cộng Sản đều tàn ác như
nhau. Chính bọn chúng đã giết đi những người nhân hậu!
Dĩ nhiên thân phụ tôi không thể cứu được nhiều nạn nhân như
ông Raoul Wallenberg đã từng làm; nhưng chí ít Ba tôi cũng đã giúp được một số
người, dù con số đó rất nhỏ nhoi, vượt thoát khỏi gông cùm cộng sản. Chỉ có một
trái tim nhân đạo mới dám làm được như thế! Ba từng nói: “Giúp được ai, dù là
chuyện nhỏ, để làm cho họ bớt thống khổ hơn là điều phải làm con ơi!”
***
Năm 81, thằng em thứ 5 của tôi liều chết vượt biên đến được Pulau
Bidong, Mã Lai. Về Adelaide, Nam Úc định cư, nó lần lượt bảo lãnh Ba và các anh
em qua. Cuối cùng cả gia đình đoàn tụ!
Ðêm nay, ngồi trước bàn phím computer, viết bài này do anh Hoàng
Ðịnh Nam, báo Trẻ Garland Texas đặt bài, nhân Father's Day bên Mỹ, tôi lại nhớ
đến cái bàn máy đánh chữ của Ba. Nhớ mười ngón tay xương xẩu, cong vòng của Ba
gõ trên bàn đánh máy mà ngày xưa người ta thường cảnh báo về già sẽ bị đau tim
mà chết. Nhưng Ba không sợ! Mười ngón tay đó của Ba đã nuôi anh em con ăn học,
đủ để sống sót và làm lại cuộc đời nơi đất lạ quê người. Tụi con xin cảm ơn Ba!
Ba bỏ tụi con đi, năm nay nữa là 15 năm chẵn. Tiếng gõ trên
bàn máy chữ vẫn rào rào như tiếng mưa rơi... vẫn còn vang động đâu đây!Nhớ và
thương vô cùng cái dáng của Ba còng lưng trên xe đạp trong những ngày ngược
gió. Nhớ bánh mì Tám Cẩu Ba mua; mà đút vào miệng chưa kịp nhai tụi con đã gục
đầu xuống bàn... mà ngủ tiếp. Nhớ cái bắt tay của Ba với thầy Trường ngày con
đậu vào đệ thất.
Người ta cần tới Father's Day, Chúa Nhựt, tuần lễ thứ ba của
Tháng Sáu như ở Hoa Kỳ hay Chúa Nhựt, tuần lễ thứ nhứt của Tháng Chín ở Úc để
kỷ niệm ngày từ phụ, để nhớ tới phụ thân!
Còn con, con nhớ Ba mỗi ngày, khi còn sống... Và cho đến lúc
nào đó con sẽ được gặp lại Ba!
Ðoàn Xuân Thu