NGỌN ĐUỐC MINH TRIẾT
TRÊN ĐƯỜNG TÌM ĐẠO (CHÂN LÍ)
Tuệ Thiền
Lê Bá Bôn
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số
chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn
vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
* “Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh
thức” là tâm không vọng tưởng. “Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu
thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất sinh bất diệt, tịch tri, tịch
chiếu.
* Tự tri là, bằng trí tuệ nội quán, nhận biết trọn vẹn mọi
cảm giác, tư tưởng, ý muốn, nhận thức phân biệt v. v…đang xảy ra trong tâm trí.
Đây là sự nhận biết (kiến chiếu) một cách tự nhiên, không phê phán, không
lấy-bỏ (thủ-xả), không dụng công. Có năng lực kiến chiếu này thì tâm trí sẽ tĩnh
lặng (tỉnh thức) và thấy rõ bản chất của bản ngã (cái “tôi”). Bản ngã sẽ được
chuyển hoá thành trạng thái tâm vô ngã - tức là tâm thái hoà bình, từ bi đích
thực, mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn “mạng lưới vật chất và tâm linh”
của vũ trụ.
*“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính
mình.
* Viên mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó, nhưng chỉ có
hướng đến đó mới xây dựng được mẫu số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc
sống. Chỉ có hướng đến đó mới tạo nên tiếng nói chung cho hoà bình, công bằng,
nhân ái - thật sự biết tôn trọng nhau giữa người với người.
* Không xiển dương sự thanh tẩy tâm thức thì tôn giáo, tín
ngưỡng chứa đầy mê tín có hại.
* Thiền chân chính, tôn giáo chân chính không thể không lấy
“tự tri-tỉnh thức-vô ngã” làm lí tưởng, làm mục đích. Đó là cốt tuỷ của Thiền
học chân truyền, của hành trạng Đại thừa.
* Gọi là “Thiền” hay từ nào khác cũng được, điều quan trọng
là cái nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”.
* Nên thấu hiểu rằng, lòng tự hào tôn giáo cũng là cái “tôi”
hiếu chiến vô minh.
* Sự giác ngộ đích thực thì đi đôi với lòng từ bi, bao dung.
* Muốn giác ngộ chân lí tuyệt đối, phải biết “đạt lí, quên
lời”, không chấp thủ ngôn từ, hình tướng - dù hình tướng thánh nhân.
* Thượng Đế (hay Chân-Thiện-Mĩ) không thuộc về phe này hay
nhóm kia, không thuộc về hình tướng nào; mà thuộc về những tâm hồn trong sạch,
bình đẳng, bác ái, từ bi. Đó là Tánh Viên Giác.
* Thiền định tự tri thì không thuộc riêng tôn giáo nào hay
nền văn hoá giáo dục nào; đó là tài sản cực kì quý giá của nhân loại muôn đời,
của vũ trụ.
* Có thể có tinh thần tôn giáo mà không theo tôn giáo nào,
tín ngưỡng nào.
* Một người ngoại đạo
có thể sống khế hợp giác ngộ nếu có khát vọng. Ngộ đạo không khó, cái khó là có
khát vọng.
* Không tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm linh của người
khác thì chưa có tâm thái hòa bình, tỉnh thức.
* Người có tâm Đại thừa thì vui mừng vì nhiều người biết
hướng thượng, chứ không cố chấp “hơn thua" về khái niệm, về từ ngữ.
* Nếu đã thật sự phát khởi tâm nguyện lớn (tâm Đại thừa) thì
dù chưa triệt ngộ, vẫn có thể tuỳ duyên
sử dụng nghịch hạnh.
* Khi sống muốn bao la cùng trời đất thì khi chết sẽ không
bị trói buộc vào chốn phiền não.
* Tôn giáo có ý nghĩa lớn về đạo đức, về cảm hứng, nhu cầu cải
tạo tâm tính, nếu tôn giáo giàu từ bi bác ái.
* Về tôn giáo cũng như về các lĩnh vực khác, rất nhiều người đạt đến đỉnh cao bằng con đường tự học,
tự đào tạo, bằng cách sống thông thường. Khát vọng lớn thì thành công lớn.
* Ở giữa vườn hoa, xác chuột chết vẫn thối; ở giữa đầm bùn
lầy, đoá sen vẫn thanh khiết.
* Không biết phục thiện thì không thể học được những bài học
vĩ đại trong trường đời; dù có bằng cấp cao cũng chi là kẻ ấu trĩ về trí tuệ.
* Không tự tri, tức quán tâm, thì không thể thấy huyễn tướng
cái “tôi”, tức bản ngã.
* Sự xấu ác là biểu hiện của cái “tôi” (bản ngã) đen tối.
* Cái “tôi” càng lớn thì tình thương càng nhỏ. Càng chấp
thủ cái “tôi, bệnh tinh thần càng nặng;
càng ảnh hưởng có hại cho tha nhân, môi trường bằng hành vi, bằng thái độ, bằng
năng lượng tâm ý.
* Theo cách nói của nhiều nhà vật lí thì vũ trụ là một mạng
lưới chằng chịt vật chất và tâm linh tương quan với nhau. Hiểu như vậy, sẽ thấy
toàn vũ trụ là một cơ thể bất khả phân.
* Con người cần có sự định tâm tỉnh trí để thấy biết trọn
vẹn tâm hồn mình. Không tự tri thì không tự chủ, không có sự liêm khiết và tự
do tinh thần, không có Thiền.
* Tham cứu Thiền là tham cứu sự sống và ý nghĩa cuộc sống.
* Thiền là tự tri, là siêu vượt tín ngưỡng, hình tướng, khái
niệm…, là sống tỉnh thức toàn diện với trí vô sư, với trí tuệ siêu vượt quy
định nhị nguyên (tức là sống với trí bát-nhã).
* Không phải “danh ngôn” nào, “lễ nghĩa” nào, “truyền thống”
nào cũng giá trị, cũng đáng theo.
* Tinh thần càng tự do thì trí tuệ-lương tri càng sáng.
* Có những thứ “vinh quang” dính đầy sự bẩn thỉu. Ai mới
thấy hào quang danh lợi đã trọng vọng, đó là người không minh mẫn, không biết
chính tà.
* Chưa nghiên cứu nghiêm túc về bản ngã (cái “tôi") thì
chưa thể có đường lối giáo dục đúng đắn.
* Không biết phục thiện thì không thể học được những bài học
vĩ đại trong trường đời; dù có bằng cấp cao cũng chi là kẻ ấu trĩ về trí tuệ.
* Tâm hồn đen tối tạo ra xã hội đầy tệ nạn. Muốn xây dựng xã
hội tốt đẹp, phải có nền giáo dục có khả năng giáo dục tất cả mọi người (không
trừ một ai) nhận thức sâu sắc các bệnh tâm hồn, phải làm cuộc cách mạng nội tâm
tận đáy cái “tôi”.
* Nhà giáo yếu kém nhân cách thì chỉ là công cụ tồi, có hại
cho xã hội rất lớn (vì nhiều người ngây thơ tin tưởng vào họ). Tu sĩ yếu kém
nhân cách cũng thế.
* Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta, là làm thế nào để
xây dựng vững chắc cảm hứng sống có đạo đức nhân văn ở con người.
* Thiền là sống tỉnh thức, thực tế và minh triết.
* Khi ta suy nghĩ, ta chỉ tiếp xúc với một vài khía cạnh
cuộc sống. Nhưng nếu muốn giáp mặt thực tại toàn diện của cuộc sống thì phải im
lặng tâm trí.
* “Vô niệm” để chấm
dứt trí nhớ tâm lý - thứ trí nhớ lấy cái “tôi”, cái chấp ngã làm trọng tâm.
* Tâm vô ngôn là sự tỉnh thức toàn diện của sự sống.
* Tâm trí không tĩnh lặng thì không thể giáp mặt
thực-tại-đúng-như-thực, không thể giáp mặt chân lí cuộc sống.
* Niềm tin nếu đi đôi với
sự chấp ngã nặng nề thì nuôi dưỡng lòng kiêu ngạo sân si.
* Không biết tu tâm thì không thể phát triển nhân cách. Sự
tu tâm chân chính là việc làm quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với xã hội, vũ
trụ.
* Truyền bá minh triết Thiền Định Tự Tri là góp phần cải tạo
xã hội.
* Khi dục vọng vô mình và sự chấp ngã ngự trị thì không có
tự do tinh thần.
* Vô minh là trạng thái tâm trí trụ vào kiến chấp nhị nguyên
(nhị tướng).
* Tự tri là hồi quang phản chiếu, là nội quán.
* Giá trị làm người thể hiện ở hiệu quả thiện ích , ít tác
hại (nhất là ở mặt “tiềm ẩn” là năng lượng tâm thần) đối với xã hội, đối với
vận hành của vũ trụ.
* Tâm giải thoát phiền não mang ý nghĩa hiếu nghĩa lớn nhất,
mang ý nghĩa nghĩa vụ và trách nhiệm cao quý nhất, vì đó là hành động thuận đạo
lí, thuận hợp đại luật vận hành của vũ trụ.
* Thấu triệt lí duyên sinh-vô ngã thì tâm dễ tĩnh lặng, não
dễ chuyển hóa, dễ ngộ nhập chân lí tuyệt đối.
* Vắng mặt năng lực tự tri tự chủ, vắng mặt trí-lương-tri
thì trí-công-cụ sẽ trở thành tôi tớ cho trí-chó-sói.
* Cái “tôi" càng lớn, càng bền chắc, càng xảo quyệt,
càng tự tôn, càng bè phái thì sự liêm khiết trí thức càng suy yếu, tư tưởng và
hành vi “người bóc lột người” càng đa dạng.
* Giáo dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là biện pháp tối
ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục, thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới.
* Thấy-biết khác với hiểu. Nếu thấy-biết của tâm chưa khế
hợp với Bát Nhã Tâm Kinh thì chưa có Trí Bát Nhã.
* Một trong những phương cách giúp duy trì cảm hứng sống
thiền là tọa thiền mỗi ngày. Không nên bỏ trắng ngày nào cả (vì lí do gì đó
cũng nên duy trì vài phút).
* Khoác lác, tự đại, tự ti, khiêm tốn đều không có lợi cho
Đạo.
* Muốn đi sâu vào kinh sách về Thiền, phải có năng lực
đọc-hiểu và đọc-thấy. Thiền định tự tri làm xuất sinh năng lực đọc-thấy. Đó là
cái thấy nội tại.
* Khi tâm hồn không có lí tưởng thánh thiện và minh triết
thì con người rất dễ bị cái xấu lôi cuốn, rất dễ bị tha hóa biến chất.
* Chưa thật thấy chúng sinh là ân nhân của mình thì chưa có
phẩm chất Bồ tát, chưa tỉnh thức.
* Sự tĩnh tâm tự tri có công năng giữ gìn lương tri, sự tự
chủ, sức khoẻ tinh thần, giá trị làm người.
* Người biết yêu nét đẹp của tâm hồn là người trưởng thành
tâm trí, là người có tinh thần dũng cảm, biết sống với hạnh phúc chân chính.
* Càng hướng đến lí tưởng vô ngã thì cái “tôi” càng giàu
thiện ích mĩ.
* “Vô ngã” là bản ngã (cái “tôi”) chuyển thành trạng thái
tâm trí hòa bình, tỉnh sáng, “vô ngôn giữa muôn lời”.
* Khi cái “tôi” xâm lấn, bóc lột người khác, nó luôn ẩn núp
sau những lời hoa mĩ.
* “Vô ngã” là Sự Sống bất sinh bất diệt. “Vô ngã” là chân
ngã, là giải thoát.
* Tâm hồn không tự do thì không có năng lực tư duy độc lập,
không cảm thụ được trọn vẹn vẻ đẹp cuộc sống, nghèo nàn tinh thần sáng tạo, kém
nhân cách.
* Tâm ý xấu ác không chỉ có hại cho thế giới, mà còn rất hại
cho môi trường năng lượng của mình.
* Tư tưởng xuất thế góp phần làm trong sạch sự nhập thế.
* Tâm Đại thừa là tâm khiêm hạ, hiểu rằng tội lỗi của mình
từ vô lượng kiếp đã ảnh hưởng xấu đến tất cả chúng sinh.
* Tâm Đại thừa khởi phát
từ sự nhận thức sâu sắc rằng, tội lỗi của cá thể ảnh hưởng đến toàn thể,
qua thân khẩu ý.
* Thể xác thì tất nhiên có sở trụ, nhưng tinh thần thì cần
“hướng đến” vô sở trụ.
* Làm cho con người biết yêu quý nét đẹp tâm hồn mình, đó là
nhiệm vụ cao cả của văn hoá, của giáo dục, của tôn giáo.
* Thiền định tự tri là sống tận nền tảng, tận cội nguồn sự
sống.
* Giá trị giác ngộ, giá trị Đại Thừa không nằm ở hành vi,
hình tướng bên ngoài, mà ở thực chất của tâm. Nếu thật sự có giác ngộ, có tâm
Đại thừa thì dù sống ẩn dật vô danh vẫn có thiện ích lớn cho chúng sinh, cho sự
nghiệp giác ngộ chung.
* Có duyên lành với nền văn hoá giác ngộ là có diễm phúc cực
kì lớn lao.
* Nếu chưa quán tâm (tự tri) để thấy rõ tướng trạng như
huyễn của bản ngã thì chưa biết “đọc
kinh bằng tâm”, chưa biết đọc công án Thiền.
* Thỉnh thoảng có được một vài phút sống với tâm vô ngôn
cũng có công đức và phước đức rất lớn.
* Giới hạnh là vấn đề khoa học, vấn đề nhân quả. Chí hướng
giác ngộ biết tôn trọng nhân quả, nhưng muốn siêu vượt nhân quả, luân hồi.
* Thiền học không nên chỉ dạy hạn chế ở một vài ngành đại học, mà nên phổ cập ở mọi
cấp học để có nền tảng vững chắc trong giáo dục-đào tạo nhân cách.
* Cái “tôi” làm cho tâm hồn nặng trĩu vì uy lực, còng xuống
vì nô lệ, đen tối vì tự ti, tự phụ, tự ái…
* Thiền định tự tri càng cao thì càng minh mẫn hơn, chủ động
hơn với cuộc sống, với công việc; năng lượng phiền não được chuyển hoá thành
năng lượng an lạc, thiện ích.
* Niệm (nhớ-nghĩ) luôn xuất
hiện trong tâm. Chúng là ngôn từ (tiếng nói bên trong) và có hình tướng
(sóng tâm thức). Trong thiền định (tự tri), ai thấy rõ niệm sinh diệt liên tục,
thấy rõ chỗ niệm xuất hiện và chấm dứt (tức là khoảng trống giữa hai niệm) thì
sẽ nhận ra (ngộ) tâm vô niệm, “vô ngôn”. Đó là tâm thể “một niệm vô ngôn"
như vầng trăng toả sáng. (“Niệm” trong “niệm vô ngôn" có huyền nghĩa khác
hẳn với “niệm” trong “vọng niệm”. Phải ngộ mới thấy, mới biết). Vô ngôn đó khi
đã “an định”, sẽ soi sáng muôn lời (tức là soi sáng trí phân biệt tương đối), sẽ là tri giác tự do tự tại,
thoát tình trạng vọng động vô minh. Đó là “tánh sáng” bất sinh bất diệt.
* Phải biết “ghét” bệnh phong, nhưng đừng ghét người mang bệnh phong; cũng
vậy, phải biết ghét thói xấu nhưng đừng ghét người đang có thói xấu. Sự xấu ác
là bệnh tinh thần.
* Cái nhìn khách quan không thể đánh giá được nhân cách minh
triết; chỉ họ tự biết. Nhân cách minh
triết tối cao chính là nhân cách tự-do-tinh-thần. Đó là giá trị cao nhất.
* Tâm bất bình thường thì não bất bình thường. Tâm não
bất bình thường tác động bất bình thường
đến sự vật và ảnh hưởng xấu đến nhận thức của ta, đến cuộc sống của ta (kể cả
hoàn cảnh).
* Được lên thiên đường bởi niềm vui: niềm vui mang tính chất
nhân từ. Bị xuống địa ngục cũng bởi “niềm vui”: niềm vui mang tính chất gian
ác.
* Không quan tâm đến sự sống sau khi thể xác chết là quá thờ
ơ với tương lai.
* Trong ta có “tấm gương” “nghe và thấy” được tư tưởng, cảm
giác, ý muốn... Tĩnh tâm một thời gian
thì tấm gương này sẽ lộ rõ. Nó càng sáng, ta càng dễ thấy cái “tôi” và cái
“tôi” dễ dàng được chuyển hoá thành “vô ngã”.
* Mọi tài năng đều có giá trị về mặt công cụ, đều có thể góp
phần làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhưng cái năng lực quý giá nhất làm cho con
người giữ vững giá trị làm người, đó là sự tự tri tự chủ. Thiếu cái năng lực
này, các tài năng khác có thể biến con người thành ác quỷ, dã thú, kẻ đê tiện.
* Khi ngồi định tâm mà vẫn nhớ nghĩ đủ chuyện (tức nói năng
bên trong) thì giống như khi ngồi một mình mà nói đủ điều. Đó là tình trạng bất
bình thường của tâm trí, của bộ não và hệ thần kinh.
* “Tỉnh thức” là “có mặt” trong giây phút hiện tại với những
gì đang xảy ra.
* “Có mặt” tức là tâm trí không còn vọng tưởng lang thang.
* Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục
thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp
thu đạo lí giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lí giác ngộ thì dễ thực hành tự
tri; người biết thực hành tự tri thì dễ thực chứng chân lí tuyệt đối, siêu vượt
khái niệm-tướng trạng.
* Khi kẻ ác tấn công ta, ta sử dụng trí tuệ và lòng dũng cảm
để đối phó với chúng; làm như thế thì có lợi hơn là sử dụng lòng căm thù.
* Vô ngã là tâm thái tịch tri, tịch chiếu, thường tịch
quang. Vô ngã là Chân ngã.
* Đừng coi thường việc chữa trị các bệnh tinh thần, vì nếu
thế, văn minh vật chất và sự hưng thịnh kinh tế chỉ như sức lực dồi dào của một
gã khùng hung hãn, sẽ rất nguy hiểm cho nhân loại.
* Từ năng lượng quán tâm (tự tri) xuất sinh tình thương,
niềm vui, năng lực sáng tạo có chất lượng cao, xuất sinh nhãn quan minh triết,
tác dụng giáo dục.
* Tâm thái vô ngã là tâm thái hòa bình, bao dung, minh
triết, thông minh.
* Khi đã biết sống với tâm vô ngôn thì tuỳ duyên ứng xử,
không bị quy định bởi bất cứ gì; đó là sự tự do tự tại đích thực của tâm trí.
Tâm Thiền là Chân-Thiện-Mĩ. Minh triết tối thượng là biết dừng tâm và tịch
chiếu.
* Tâm hồn không thanh bình thì cuộc sống kém chất lượng,
hiệu quả công tác không cao, không có kinh nghiệm về niềm an vui tự phát, không
thể ngộ nhập Tánh Viên Giác vốn có ở chúng sinh và trùm khắp mười phương.
* Truyền bá minh triết thiền “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là
góp phần xây dựng nền văn hoá hoà bình, nền văn hóa tiên tiến.
* Tu viện lớn, lễ lược nhiều không có ý nghĩa bằng chăm lo
chu đáo và khoa học cho sự tu tập và đời sống vật chất của tu sĩ.
* Một tinh thần thật sự trẻ trung và đầy sinh lực là một
tinh thần trong sạch. Tinh thần đó ít lệ thuộc vào thể trạng và hoàn cảnh.
* Có đức mà không có tài, không phải là vô dụng, vì vẫn có
tác dụng giáo dục lớn lao đối với xã hội (qua lối sống), vì vẫn mang năng lượng
tinh thần (thiện ích) ảnh hưởng tốt đến môi trường sống của cộng đồng (có cả
giá trị giáo dục). Có tài mà không có đức, không chỉ có hại cho xã hội về hành
vi xấu, mà còn mang năng lượng tâm thức độc hại cho môi trường (và cho bản thân
mình). (Vấn đề này Phật giáo gọi là tạo nghiệp tốt xấu; nghiệp cũng mang năng
lượng; toàn vũ trụ là những dòng chảy năng lượng).
* Chưa nghiên cứu nghiêm túc về bản ngã (cái “tôi") thì
chưa thể có đường lối giáo dục đúng đắn.
* Theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng tâm thức là
dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho toàn vũ trụ (tuỳ tính
chất tâm thức) và cho bản thân.
* Trái đất đang nóng dần lên; tâm hồn nhân loại đang nóng
bỏng. Nhà khoa học nỗ lực vá tầng ô-dôn; thiền gia nỗ lực thiền định để góp
phần chuyển hoá tâm trí nhân loại bằng năng lượng tỉnh thức, an lạc, thanh
thoát, từ bi.
* Nhà tâm lí học không thể hiểu biết sâu sắc cơ cấu tâm lí
nếu không thiền định tự tri. Nhà giáo dục học, nhà chính trị học sẽ không có
tầm nhìn minh triết về giáo dục, về chính trị nếu không hiểu biết sâu sắc cơ
cấu tâm lí con người. Nhà truyền bá tôn giáo sẽ hạ thấp giá trị tôn giáo nếu
thiếu quan tâm vấn đề này.
* Không ai là không có tâm xấu ác, điều quan trọng là phải
nỗ lực cải tạo. Thực hành “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là trách nhiệm của mọi người.
(Trích trong Đường Về Minh Triết; Thư viện 4phuong.net)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)