(Giai thoại Văn Học Dân Gian Quảng Nam-
Đà Nẵng)
Làng Dùi Chiêng là một làng nhỏ trước
đây thuộc xã Quế Phước huyện Quế Sơn,
nay vẫn là xã Quế Phước nhưng thuộc huyện Nông Sơn. Tương truyền rằng làng Dùi
Chiêng nằm ở thượng nguồn sông Thu Bồn, trước mặt là sông, sau
lưng là núi. Vì
núi có hình thù giống như cái dùi để đánh chiên nên người ta đặt tên làng là
Dùi Chiêng.
Thuở ấy ở làng Bình Yên, nay thuộc Đại Hòa huyện Đại Lộc có một người tên
là Tư lên Dùi Chiêng để làm ăn. Tại Dùi Chiêng có một người giàu có, dân làng gọi
là Bá Giảng. Bá Giảng thích thơ văn, hát hò. Một hôm trong cuộc vui Bá Giảng
thách ông Tư hát Hò Khoan với các cô gái trong làng. Trong bài hát phải có mấy
chữ “Dùi Chiêng”. Hát Hò Khoan là một điệu hát hò dân gian Quảng Nam- Đà Nẵng.
Gọi là Hò Khoan vì sau mỗi câu hát thì thính giả đứng hay ngồi chung quanh đồng
thanh hò phụ:”Hò khoan, hố khoan hợi là hò khoan”.
Được lời khích lệ, Ông Tư ứng khẩu hát ngay:
Tôi đây khách lạ xa đàng
Lên đây ông Bá bảo hát với các nàng ở
làng Dùi Chiêng
Rạng ngày mai tôi đảo cảnh Bình yên
Các cô ở lại có chiêng không dùi
Về nhà, lòng ngại bùi ngùi
Các cô ở lại có dùi không chiêng
Trai anh hung nay gặp gái thuyền quyên
Có ta, có bạn, có chiêng, có dùi…
Bá Giảng và mọi người đều phục tài ông
Tư.
Đọc bài hò của ông Tư làng Bình Yên ta
thấm thía ngay với sự đặc sắc của câu hò trong văn học dân gian. Câu hò của ông
Tư ứng khẩu vừa mộc mạc vừa dí dỏm, dễ gây tiếng cười cho mọi người, lại bày tỏ
sự quyến luyến của mình với đất khách, sự
thân thiên đầy hạnh phúc khi giao lưu cùng nhau “Có ta, có bạn, có chiêng, có
dùi”. Câu thơ “Về nhà, lòng lại bùi ngùi/ các cô ở lại có dùi không chiêng” phải
hiểu là ông Tư muốn nói khi ông về nhà thì lòng lại bùi ngùi nhớ các
cô gái ở lại, bởi lúc đó ông có cái “dùi” mà không có cái “chiêng” của các cô.
Từ đó chung ta hiểu rằng người dân quê có một trình độ hiểu thơ rất xâu xa, dầu
câu hò có bí hiểm họ vẫn hiểu ra ngay cái ý tiềm ẩn trong câu hò ấy. Bởi vậy
Truyện Kiều tuy là văn chương bác học mà được người nông dân thuộc lòng và tôn
lên thơ thần dùng cho bói toán.
Câu chuyện nầy tôi đọc được trong sách “Văn Học
Dân Gian Quảng Nam- Đà Nẵng” tập 2 trang 188 của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn
văn Bổn tức nhà thơ Tần Hòai Dạ Vũ. Bài hát Hò Khoan đơn sơ và ngắn gọn của ông
Tư làng Bình Yên – Đại Hòa – Đại Lộc đem
đến cho tôi một niềm vui bắt chợt đầy thú vị. Tuy là một niềm vui bắt chợt
nhưng nó lại hình thành một tình yêu quê hương, yêu người Quảng Nam rất lớn
trong tâm hồn tôi. Tôi xin gởi lời cảm ơn đến tác giả tập sách vì nó đã cho
tôi, nhiều người như tôi và con cháu tôi nữa có cơ hội đi vào tâm hồn tuyệt đẹp
của dân gian quê hương mình ./.
Châu Thạch